-
|
A. MỞ ĐỀ :
ĐỜI ĐỨC PHẬT THÍCH CA LÀ MỘT
TẤM GƯƠNG SÁNG
Bắt nguồn một tôn giáo nào, vị
giáo chủ bao giờ cũng là một tấm gương sáng cho tín đồ soi chung để tiến
bước. Nhưng trong các vị giáo chủ của các tôn giáo hiện có trên thế giới
này, không có một vị nào đầy đủ ý nghĩa cao đẹp, một đời sống sâu xa
bằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói,
cho đến mỗi im lặng của Ngài đều là những bài học quý báu cho chúng ta.
Nếu chúng ta học giáo lý của Ngài mà không hiểu rõ đời sống của Ngài,
thì sự học hỏi của chúng ta còn phiến diện, thiếu sót. Đời Ngài chính là
những biểu hiện giáo lý của Ngài. Ngài nói và Ngài thực hành ngay những
lời Ngài đã nói. Đời Ngài là một bằng chứng hiển nhiên để người đời nhận
thấy rằng giáo lý của Ngài có thể thực hiện được, chứ không phải là
những lời nói suông, những không tưởng, những lâu đài xây dựng trên mây,
trên khói.
Vậy cho nên khi chúng ta học hỏi
đời Ngài, chúng ta không nên có cái quan niệm học cho biết để thỏa mãn
tánh hiếu kỳ, mà chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa thâm túy của đời
sống ấy để đem áp dụng cho đời sống của chúng ta.
Làm được như thế mới khỏi phụ ý
nguyện lớn lao của đức Phật khi giáng sanh xuống cõi Ta Bà này và đã cam
chịu bao nỗi đau khổ, gian lao trong kiếp sống như mỗi người chúng
ta.
B. CHÁNH ĐỀ :
ĐỊNH NGHĨA HAI CHỮ "GIÁNG SANH"
:
Thường trong danh từ nhà Phật,
khi nói đến sự hiện diện của đức Phật Thích Ca trong cõi đời này, người
ta thường dùng chữ đản sanh (nghĩa là một sự ra đời vui vẻ, làm hân
hoan, xán lạn cho cõi đời); hay thị hiện (nghĩa là hiện ra bằng xương
bằng thịt, cho con mắt trần của chúng ta thấy được); hay giáng sanh
(nghĩa là từ một chỗ cao mà xuống một chỗ thấp để sanh
ra).
Ba chữ ấy đều có 3 ý nghĩa khác
nhau: Chữ đản sanh dùng để ca tụng một bậc tôn quí ra đời; chữ thị hiện
hàm cái ý Phật bao giờ cũng có cả, nhưng vì mắt người không thấy được,
phải hiện rõ ràng ra mới thấy; chữ giáng sanh hàm cái ý đức Phật ở một
cảnh giới cao hơn, tốt đẹp hơn mà hạ xuống cảnh giới phàm trần này. Ba
chữ ấy mặc dù khác nhau, nhưng đều có thể dùng để chỉ sự ra đời của đức
Phật. Trái lại, khi một người phàm ra đời thì gọi là "đầu thai". Đầu
thai có nghĩa là bị nghiệp báo hoặc thiện hay ác bắt buộc phải luân hồi
để chịu quả báo lành hay dữ. Còn giáng sanh hay thị hiện thì không hàm
cái nghĩa bị nghiệp nhân câu thúc, mà do nơi lòng từ bi, muốn lợi ích
cho chúng sanh, nên tự nguyện ứng thân xuất hiện ra đời trong một thời
gian để cứu độ chúng sanh; xong xuôi thì thâu thần tịch diệt, tự tại vô
ngại ra ngoài sống chết.
HOÀN CẢNH VÀ DÒNG DÕI CỦA ĐỨC THÍCH
CA :
Đức Phật giáng sanh ở xứ trung
Ấn Độ, bây giờ là nước Népal, một nước ở ven sườn dãy núi Hy Mã Lạp Sơn,
là một dãy núi cao nhất thế giới. Phong cảnh ở đấy rất đẹp; đến mùa xuân
cả nước đơm bông nảy lá như một vườn hoa vĩ đại. Dân cư ở xứ ấy rất là
thuần lương. Vị vua trị vì là Tịnh Phạn, một vị vua thuộc dòng Thích Ca,
là một dòng họ lớn đã mấy mươi đời nối nghiệp trị vì đất nước này. Bà
Hoàng Hậu Ma Da, cũng là một người thuộc dòng vua chúa đã lâu đời. Cả
hai ông bà đều là người đã nhiều kiếp tu hành, có đức hạnh
lớn, xứng đáng làm cha mẹ muôn dân.
Một hôm, trong thành Ca Tỳ La
Vệ, là kinh đô của vua Tịnh Phạn, có lễ vía tinh tú, vua tôi cùng nhau
mở hội ăn chơi. Hoàng Hậu Ma Da, sau khi dâng hương hoa cúng kiến trong
cung điện rồi, ra ngọ môn bố thí thức ăn, đồ mặc cho dân bần cùng. Khi
trở về cung an giấc, Bà nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên
hư không xuống, lấy ngà khai hông bên hữu của Bà mà chun vào. Bà đem
điềm chiêm bao ấy thuật lại cho vua Tịnh Phạn nghe. Vua ra lịnh mời các
thầy đoán mộng. Các nhà tiên tri đoán rằng: "Hoàng hậu sẽ sanh một quý
tử tài đức song toàn". Vua Tịnh Phạn rất mừng rỡ, vì ngôi báu từ đây sẽ
có người truyền nối.
Đến sáng ngày mồng tám tháng tư
âm lịch (trước Tây lịch 624 năm), tại vườn Lâm Tỳ Ni, cách thành Ca Tỳ
La Vệ 15 cây số, Hoàng hậu Ma Da đang ngoạn cảnh, trông thấy cành hoa Vô
Ưu mới nở, thơm ngát, bà đưa tay phải với hái, thì Thái Tử cũng vừa xuất
hiện ngay đấy.
Ngày đản sanh Thái Tử, trong
thành Ca Tỳ La Vệ, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cỏ
đều đơm hoa trổ trái; sông, ngòi, mương, giếng, nước đều trong đầy; trên
hư không chim chóc và hào quang chiếu sáng cả mười
phương.
Vua Tịnh Phạn vui mừng khôn xiết
mời các vị tiên tri đến xem tướng Thái Tử. Trong số ấy, có đạo sĩ tên A
Tư Đà tu ở núi Hy Mã Lạp, tiên đoán rằng: Thái Tử vì có 32 tướng tốt
xuất hiện, nên sẽ trở thành một vị Thánh. Nhưng vua Tịnh Phạn lại chỉ
muốn con mình làm một vị vua để nối dõi tông đường mà thôi. Vì thế, Tịnh
Phạn Vương muốn đổi số mệnh con mình, nên đặt tên cho Thái Tử là Tất Đạt
Đa (Siddartha) theo tiếng Phạn, nghĩa là: "Kẻ sẽ giữ chức vị mà mình
phải giữ". Chức vị mà Tịnh Phạn Vương muốn ám chỉ đây tức là ngôi Vua.
Ngài không ngờ rằng chính thật chức vị của Ngài là chức vị
Phật.
Hoàng hậu Ma Da sau khi sanh
Thái Tử được bảy ngày, vui thú quá vì thấy mình đã làm tròn nhiệm vụ cao
quý, và đã rửa sạch nghiệp báo nên Bà trút được xác phàm và sanh về cõi
trời Đao Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái Tử cho em gái Hoàng hậu là Ma Ha
Ba Xà Ba Đề nuôi dưỡng.
TÀI NĂNG VÀ ĐỨC HẠNH CỦA THÁI TỬ
:
Thái Tử mỗi năm mỗi lớn, thì
diện mạo càng thêm khôi ngôi, tài năng càng phát lộ gấp bội. Ngài có một
sức khỏe hơn người, một trí thông minh xuất chúng. Từ nghề văn cho đến
nghiệp võ, Thái Tử học với ông nào thì trong ít hôm sau, vị giáo sư ấy
phải xin cáo thối, vì không còn đủ sức để dạy nữa. Cho đến ông thầy danh
tiếng đệ nhất thời bấy giờ là Sằn Đề Đề Bà cũng chịu khuất phục Ngài
luôn.
Nhưng, mặc dù tài sức hơn người,
thông minh xuất chúng lại ở trong địa vị cao sang quyền quý tột bậc,
Thái Tử không bao giờ tỏ vẻ ngạo mạn, khinh người. Ngài có một thái độ
rất hòa nhã ôn hòa, vô tư, bình đẳng. Lòng thương người, thương vật của
Ngài không ai sánh kịp, hễ có dịp giúp đỡ, thì dù khó khăn bao nhiêu
Ngài cũng không từ nan. Bởi thế, Ngài được trên Vua cha yêu quý, dưới
thần dân kính trọng, nể vì.
NHỮNG RÀNG BUỘC CỦA TỊNH PHẠN VƯƠNG
ĐỂ NGĂN CHÍ XUẤT GIA CỦA THÁI TỬ :
Càng thương yêu, quý trọng con
Tịnh Phạn Vương lại càng lo sợ con mình sẽ không ở lại với mình, mà sẽ
xuất gia tìm Đạo để thành một vị Thánh, như lời tiên đoán của đạo sĩ A
Tư Đà. Nhất là khi nhận thấy càng lớn, Thái Tử lại càng có vẻ suy nghĩ
xa xăm, và nét mặt Thái Tử lại không được vui tươi như thời thơ ấu, Vua
Tịnh Phạn lại càng lo sợ rằng lời tiên tri xưa sẽ thực hiện. Bởi thế,
Vua cùng triều thần ngấm ngầm sắp đặt mọi kế hoạch để ràng buộc Thái Tử
ở lại ngôi báo. Ngài truyền xây dựng ba tòa lâu đài nguy nga tráng lệ để
Thái Tử thay đổi nơi ăn chốn ở cho hợp thời tiết quanh năm, và chọn từng
trăm cung phi mỹ nữ có tài đàn ca hay, múa giỏi để giải khuây cho Thái
Tử. Nhưng chừng ấy cũng chưa đủ , Ngài còn làm lễ thành hôn cho Thái Tử
với một Công chúa con vua Thiện Giác là Da Du Đà La, một Công chúa tuyệt
đẹp và đức hạnh vô cùng. Thái Tử bị bắt buộc phải lập gia thất và có một
con là La Hầu La. Nhưng, mặc dù sống một cuộc đời quá đầy đủ: nào chức
tước danh vọng, nào lâu đài cung điện, nào đàn ca múa hát, nào vợ đẹp
con ngoan, Thái Tử vẫn thấy lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn, thắc
mắc. Ngài cho cảnh đời Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc chân
thật, mà là giả dối, mê muội, chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề đau
khổ. Ngài thấy cần phải tìm một lối thoát, một cuộc sống chân thật, có ý
nghĩa và cao đẹp hơn.
NHẬN RÕ BỐN TƯỚNG KHỔ Ở ĐỜI
:
Một hôm, nhân ngày lễ hạ điền,
Thái Tử theo vua cha ra đồng xem dân chúng cày cấy. Cảnh xuân, mới nhìn
qua, thật là đẹp mắt, nào hoa lá tốt tươi, muôn chim đua hót; nào bầu
trời quang đãng, gió xuân phơi phới. Cảnh tượng có vẻ thái bình, an lạc
lắm. Nhưng tâm hồn Thái Tử không phải là một tâm hồn hời hợt, xét đoán
một cách nông nỗi. Trái lại, Ngài nhìn sâu vào trong cảnh vật và đau đớn
nhận thấy rằng cõi đời không đẹp đẽ an vui như khi mới nhìn qua. Ngài
thấy người nông phu và trâu bò làm việc một cách cực nhọc dưới ánh nắng
thiêu đốt, để đổi lấy bát cơm, nắm cỏ. Chim chóc tranh nhau ăn tươi nuốt
sống côn trùng đang giãy giụa trên những luống đất mới cày. Cũng trong
lúc ấy, trong bụi rậm người thợ săn đang nhắm bắn những con chim kia, và
trong khu rừng gần đấy, bọn hổ báo đang rình bắt người thợ săn. Thật là
một cảnh tương tàn tương sát, không phút giây nào ngừng ! Chỉ vì miếng
ăn để sống mà người và vật dùng đủ mọi phương kế để giết hại lẫn nhau
không biết gớm. Ngài nhận thức rõ ràng sự sanh sống là
khổ.
Một hôm khác, Ngài xin phép Vua
cha đi dạo ngoài bốn cửa thành để được tiếp xúc với thần dân. Ra đến cửa
Đông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt mờ, tai điếc, lưng
còng, nương gậy lần từng bước ngập ngừng như sắp ngã.
Đến cửa Nam, Thái Tử thấy một
người đau nằm trên cỏ, đang khóc than rên siết, đau đớn vô
cùng.
Đến cửa Tây, Ngài trông thấy một
cái thây chết nằm giữa đường, ruồi lằng bu bám, và sình lên, trông rất
ghê tởm.
Ba cảnh khổ già, đau, chết, cộng
thêm vào cái ấn tượng tương tàn trong cuộc sống mà Thái Tử đã nhận thấy
khi đi xem lễ cày ruộng, làm cho Ngài đau buồn, thương xót chúng sanh vô
cùng.
Một hôm khác nữa, Ngài ra cửa
Bắc, gặp một vị tu sĩ tướng mạo nghiêm trang, điềm tĩnh thản nhiên như
người vô sự đi ngang qua đường. Thái tử thấy trong lòng nẩy sinh một cảm
mến đối với vị tu sĩ. Ngài vội vã đến chào mừng và hỏi về ích lợi của sự
tu hành. Vị Sa môn đáp rằng: "Tôi tu hành là quyết bỏ dứt mọi sự ràng
buộc của cõi đời, về cầu cho mình khỏi khổ và thành chánh giác để phổ độ
chúng sanh đều được giải thoát như mình !"
Lời giải đáp trúng với hoài bão
mà Thái Tử đang ấp ủ bấy lâu, nên Ngài khôn siết vui mừng. Ngài liền trở
về cung xin vua cha cho mình xuất gia. Vua Tịnh Phạn không nhận lời.
Thái Tử yêu cầu vua cha 4 điều nếu vua giải quyết được thì Ngài hoãn
việc đi tu, để trở lại lo chăn dân, trị nước. Bốn điều này
là:
1. Làm sao cho con trẻ mãi không
già.
2. Làm sao cho con mạnh mãi
không đau.
3. Làm sao cho con sống hoài
không chết.
4. Làm sao cho mọi người hết khổ.
Bốn điều này làm cho vua cha bối
rối, không giải quyết được điều nào cả.
SỰ XUẤT GIA TÌM ĐẠO :
Tịnh Phạn Vương, khi biết được ý
định xuất gia của Thái Tử, lại càng lo sợ, lại tìm đủ cách để ngăn cản,
ràng buộc Ngài ở lại trong cung. Nhưng một khi Thái Tử đã quyết thì
không có sức mạnh gì có thể ngăn trở được Ngài.
Một đêm khuya, thừa dịp quân lính
canh gác và cung phi mỹ nữ say ngủ sau một tiệc linh đình, Thái Tử lén
trổi dậy, Ngài nhìn vợ con lần cuối, rồi đánh thức tên giữ ngựa Xa Nặc
dậy, thắng yên cương, rồi hai thầy trò trốn ra khỏi thành. Lúc bấy giờ
nhằm đêm mồng tám tháng hai, và Ngài được 19 tuổi.
Sau khi vứt bỏ khỏi cuộc đời
vương giả, Thái Tử ra đi tìm Đạo.
Ban đầu Ngài đến ở tu với các vị
tu khổ hạnh. Nhưng các vị này sống một cách kham khổ, nhịn ăn nhịn
uống, dãi nắng, dầm sương, hành thân hoại thể một cách ghê rợn. Thấy
cách tu hành như thế không hiệu quả, Ngài khuyên các vị đó nên bỏ phương
pháp tu hành ấy, nhưng họ không nghe. Ngài lấy làm thương họ, nên tìm đi
nơi khác để tu hành. Ngài đi hết chỗ này đến chỗ khác, ở đâu nghe có một
vị tu hành đắc đạo thì Ngài tìm đến học; nhưng đến đâu thì Ngài thấy đạo
của họ vẫn còn hẹp hòi, thấp thỏi, không thể giải thoát cho con người
hết được. Từ đấy Ngài tìm chốn tu tập một mình, đêm ngày nghiền ngẫm đến
đạo giải thoát, quên ăn bỏ ngủ thân hình mỗi ngày mỗi tiều tụy. Một hôm
Ngài kiệt sức, nằm ngã liệt trên cỏ, và được một người chăn cừu đến đổ
sữa cho Ngài uống và Ngài được tỉnh lại. Từ đó Ngài nhận thấy nếu muốn
có kết quả, cần phải bổ dưỡng thân thể cho được mạnh khỏe, chứ không bỏ
quên nó đi được.
Khi thấy mình đủ sức khỏe để
chiến đấu trong trận cuối cùng với bóng tối si mê và dục vọng, và đem
lại ánh sáng Giác Ngộ, Ngài đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Đề và thề
rằng: "Nếu ta không thành đạo thì thịt nát xương tan, ta cũng quyết
không rời chổ này !"
THÀNH ĐẠO :
Đức Thích Ca đã ngồi nhập định
49 ngày đêm dưới gốc Bồ Đề. Trong 49 ngày ấy Ngài đã chiến đấu với bọn
giặc phiền não ở nội tâm như tham, sân, si, nghi, mạn...và chiến đấu với
giặc Thiên Ma do Ma Vương Ba Tuần chỉ huy.
Sau khi thắng cả giặc ở nội tâm
và cả ngoại cảnh, tâm trí được khai thông, Ngài thoắt nhiên đại
ngộ.
Trong đêm thứ 49, vào canh hai,
Ngài chứng được quả "Túc Mệnh Minh", thấy rõ được tất cả quá khứ của
mình trong tam giới. Đến nữa đêm, Ngài chứng được quả "Thiên Nhãn Minh",
thấy được tất cả bản thể của vũ trụ và nguyên nhân cấu tạo của nó. Đến
canh tư, Ngài chứng được quả "Lậu Tận Minh", thấy được con người sau khi
chết sẽ đi về đâu & phương pháp để cứu chúng sanh thoát khỏi sanh tử
luân hồi ! ...
Từ ngày ấy, Ngài được Đạo Vô
Thượng, thành bậc "Chánh Đẳng Chánh Giác", hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ngày thành đạo của Ngài tính theo âm lịch là ngày mồng 8 tháng 12, vào
lúc sao mai mọc. Lúc ấy Ngài được 30 tuổi.
Ý NGHĨA CAO CẢ TRONG SỰ XUẤT
GIA TÌM ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT :
Những chiến sĩ chiến thắng quân
địch ở ngoài chiến trường, thường được ca tụng là anh hùng. Càng chiến
thắng được nhiều quân địch càng được hoan hô là anh hùng cái thế. Nhưng
những kẻ anh hùng cái thế ấy, như Nã Phá Luân, Thành Cát Tư Hãn, Xê Đa
(Céar), chỉ thắng được người chứ chưa thắng được dục vọng của chính
mình? Cho nên thắng người đã khó mà thắng mình lại khó hơn. Đức Phật,
Ngài đã thắng cả ngoại cảnh lẫn nội tâm, đã thắng được giặc Ma Vương Dục
Vọng . Đức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Đại Hùng Đại Lực !
Đức Phật, Ngài không phải vì
quyền lợi riêng mình mà chiến đấu. Ngài chiến đấu vì tình thương ; mà
tình thương ở đây cũng không phải chỉ nhằm tình thương trong phạm vi hẹp
hòi của gia đình : thương cha mẹ, vợ con, bạn bè ... Tình thương ở đây
là tình thương chúng sanh, tất cả cõi đời. Tình thương ấy nó rộng sâu
như trời bể, thiết tha như tình mẹ thương con. Đức Phật thật xứng đáng
với danh hiệu Đại Từ Đại Bi !
Lại tình thương ấy, Ngài đã hoan
hỷ lìa bỏ ngôi báu cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đàn hay múa
đẹp, mùi ngon vị lạ để sống một đời kham khổ, đạm bạc, thiếu thốn, giữa
rừng thiêng nước độc. Một khi rời bỏ thứ mà người đời cho là quý báu nói
trên, Ngài không một phút giây nào hối tiếc muốn quay về để hưởng thụ
lại. Bằng cớ là Ma Vương đã sai con gái mình giả làm nàng Gia Du đến
kêu gọi van xin Ngài trở về cung, mà Ngài không một chút bận tâm thối
chuyển. Ngài xứng đáng với danh hiệu là Đại Hỷ Đại Xả !
Cho nên
ngày nay, mỗi khi xưng tán danh hiệu Ngài, chúng sanh không thể không
suy gẫm cái ý nghĩa sâu sắc và đúng đắn mà người đời từ xưa đến nay
đã tôn xưng Ngài là Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ,
Đại Xả !
C. KẾT LUẬN: CHÚNG
TA NÊN PHÁT TÂM RỘNG LỚN VÀ
MẠNH MẼ
Chúng ta đã được biết qua đời
sống của Đức Phật từ khi sơ sanh cho đến thành đạo. Bài học của đời Ngài
dạy cho chúng ta nhiều ý nghĩa, nhiều phương diện quý
báu.
Nhưng điều quý báu nhất đối với
kẻ sơ cơ như chúng ta là phải phát tâm Bồ Đề rộng lớn, nguyện vì đời, vì
đồng bào, vì đồng loại mà tu hành, chứ không phải vì lợi ích riêng cho
chúng ta.
Chúng ta lại phải phát tâm dõng
mãnh, tích cực trong sự tu hành; một khi vào đường đạo, thì dù gặp nguy
nan, hiểm trở khó khăn cũng nhất thiết không thối lui quay gót. Chúng ta
phải tập cho được cái đức kiên trì như Đức Phật khi ngồi thiền định dưới
gốc Bồ Đề.
Được như vậy mới xứng đáng là
"chân chánh Phật tử".
Phần II: Từ Thành Đạo đến
nhập Niết Bàn
A. MỞ ĐỀ :
Trong bài trước, chúng ta đã
thấy đức Phật Thích Ca vì một đại nguyện lớn lao, vì một lòng từ bi vô
bờ bến mà xuất gia tìm đạo. Đại nguyện và lòng từ bi lớn lao ấy là: "cầu
thành Phật quả để trên đền đáp bốn ơn sâu, dưới cứu vớt ba đường khổ".
Cho nên sau khi giác ngộ, Ngài không vội nhập Niết Bàn, mà nghĩ ngay đến
sứ mạng của Ngài là : thay thế chư Phật đời trước, tiếp tục khai thị
chúng sanh ngộ nhập Tri Kiến Phật !
Sứ mạng ấy Ngài biết không phải
dễ dàng, vì cái Đạo của Ngài thì cao thâm huyền diệu, mà chúng sanh căn
cơ lại không đều, mà từ muôn kiếp đã lặn hụp trong si mê lầm lạc, khó có
thể nhận hiểu ngay được ý nghĩa cao thâm của giáo lý Ngài. Chúng sanh từ
lâu đời lâu kiếp quen sống trong bóng tối của si mê, ngày nay không khỏi
chóa mắt hoảng sợ khi tiếp xúc với ánh sáng bừng chói của trí tuệ
!
Nhưng Ngài xét thấy dù sống
trong tâm tối, nhưng mỗi chúng sanh đều có mầm Phật tánh, như hoa sen,
mặc dù sống trong bùn tanh hôi nhưng vẫn tỏa nhụy vàng thơm ngát. Ngài
cương quyết thực hiện sứ mạng của mình !
B. CHÁNH ĐỀ:
SỰ HÓA ĐỘ RỘNG LỚN VÀ CÙNG KHẮP CỦA
ĐỨC PHẬT :
Sứ mạng hóa độ của đức Phật, như
chúng ta đã biết, thật nặng nề và khó khăn. Nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt,
nhờ lòng từ bi rộng sâu, nhờ tinh thần bình đẳng triệt để và nhờ ý chí
dõng mãnh không thối chuyển mà Đức Phật đã hoàn thành sứ mạng của mình
một cách viên mãn. Trong khi hóa độ, Ngài đã dựa theo ba nguyên tắc sau
đây:
1. Hóa độ theo lớp căn cơ
:
Khi bắt đầu đi truyền đạo, ý
nghĩ trước tiên của Ngài là đi đến vườn Lộc Uyển tìm những người bạn
đồng tu với Ngài trước kia để thuyết pháp. Các người bạn ấy là các ông :
Kiều Trần Như, Ác Bệ, Thấp Lực, Ma Ha Nam và Bạc Đề . Bài thuyết pháp
đầu tiên ấy là Tứ Diệu Đế. Năm vị này điều được khai ngộ và trở thành
năm đệ tử đầu tiên của Ngài. Kế đó, Ngài thuyết pháp trong 3 tháng cho
55 người; những người này đều xin quy y theo Ngài và họp với 5 người
trong nhóm ông Kiều Trần Như thành 60 đệ tử. Sáu mươi đệ tử này, sau khi
giữ đúng giới luật, được Ngài thọ ký cho đi truyền đạo khắp
nơi.
Ngài rời Lộc Uyển đi về phía nam
đến xứ Ưu Lầu Tần Loa và hàng phục một vị tổ sư rất có uy tín của đạo
Thờ Lửa là ông Ma Ha Ca Diếp và hai em ông.
Ông Ca Diếp mang tất cả đệ tử
của mình gồm 2250 vị xin quy y theo Phật.
Nhớ lại lời hẹn xưa với vua Tần
Bà Xa La, Ngài đi đến xứ Ma Kiệt Đà vào thành Vương Xá để độ cho vua.
Vua Tần Bà Xa La gặp lại Ngài vui mừng khôn xiết, truyền xây tịnh xá
Trúc lâm để thỉnh Phật và chúng Tăng ở lại thuyết pháp độ
sanh.
Trong lúc Phật ở tại tịnh xá
Trúc Lâm, thì vua Tịnh Phạn nghe tin Ngài đã thành Phật, truyền sứ giả
đi thỉnh Ngài về thành Ca Tỳ La Vệ. Nhưng chín lần chín sứ giả ra đi đều
biệt tăm, không trở lại. Thì ra những người này khi đến Trúc Lâm nghe
Ngài thuyết pháp, đã say mê quên sứ mạng của mình và xin thọ giới xuất
gia.
Lần thứ mười, Tịnh Phạn Vương
sai một cận thần thân tín là Ưu Đà Di, mới thỉnh được Phật về. Trên
đường từ thành Vương Xá trở về Ca Tỳ La Vệ, đức Phật đã thuyết pháp độ
cho không biết bao nhiêu người. Về thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài ở lại 7 ngày.
Mặc dù chỉ trong vòng thời gian ngắn ngủi ấy, Ngài cũng cảm hóa tất cả
dòng họ Thích và tất cả những người trong dòng họ này đều xin xuất gia
theo Phật, như các ông: Nan Đà, A Nan Đà, A Nâu Lâu Đà, La Hầu
La...
Sau khi trở về thăm gia đình và
quê hương, đức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền đạo. Ngài đi
đến thành Xá Vệ là kinh đô nước Kiều Tát La, thuộc quyền thống trị của
vua Ba Tư Nặc. Ở thành này, có một đại thần tên là Tu Đạt Đa, giàu lòng
bố thí cho kẻ bần cùng côi cút, nên được gọi danh hiệu là Cấp Cô Độc
Trưởng Giả. Ông rất ngưỡng mộ đức Phật nên đã trút tất cả tiền của vàng
bạc trong kho ra mua khu vườn rộng lớn của Thái Tử Kỳ Đà để làm tịnh xá
cho Phật và đệ tử của Ngài ở, thuyết pháp độ sanh.
Được ít lâu, nghe vua Tịnh Phạn
đau nặng, sắp băng hà, đức Phật vội vã trở về thăm cha lần cuối cùng.
Thấy phụ thân buồn rầu trên giường bệnh, Phật thuyết về "Lẽ vô thường,
khổ, không, vô ngã" cho vua nghe. Nghe xong, vua liền dứt hết phiền não,
gương mặt vui tươi, cất tiếng niệm Phật, rồi băng hà một cách êm
ái.
Sau khi Tịnh phạn Vương mất, bà
mẹ nuôi của Phật là Ma Ha Ba Xà Ba Đề và bà Da Du Đà La cùng nhiều người
bên nữ giới họ Thích xin được phép xuất gia. Từ đó trong đạo Phật, lần
đầu tiên có hàng Tỳ Kheo Ni.
Đức Phật cùng các đệ tử lại tiếp
tục đi truyền Đạo. Đi đến đâu Ngài cũng được sùng mộ, tin theo và nhiều
người noi theo gương của ông Cấp Cô Độc lập tịnh xá, cất giảng đường để
Ngài thuyết pháp độ sanh.
Như thế, chúng ta thấy đức Phật
đã tuần tự hóa độ và kết nạp đệ tử, từ những hạng người đủ căn trí,
hiểu thấu giáo lý của Ngài, rồi mới rộng ra những người khác; lập Tỳ-Kheo
trước, rồi Tỳ-Kheo Ni sau.
2. Hóa độ tùy phương tiện
:
Trong suốt thời kỳ thuyết pháp
độ sanh, lắm khi Ngài cũng gặp nhiều cảnh gay go trái ngược do lòng đố
kỵ của ngoại đạo, tà giáo, hay lòng ganh ghét của nội thân quyến thuộc
gây ra. Nhưng lúc nào Ngài cũng tùy phương tiện để cảm hóa họ và đưa họ
về đường ngay lẽ phải. Chẳng hạn, khi thì Ngài bị cô gái con của ngoại
đạo độn bụng giả có chửa đến giữa đạo tràng để vu oan cho Ngài; khi thì
Ngài bị anh chàng Vô Não đuổi theo quyết giết Ngài để lấy ngón tay góp
thêm cho đủ số 1000 ngón mà nó đã giết người để lấy, vì theo thuyết tà
đạo, nó tin rằng có làm được như thế mới chứng quả; khi thì Ngài bị Đề
Bà Đạt Đa, người anh em họ hung ác, âm mưu hãm hại Ngài bằng cách thả
bầy voi say cho chạy đến chà đạp Ngài, hay lăn đá to từ trên núi cao
xuống đè Ngài.
Nhưng tất cả những âm mưu ấy đều
vô hiệu quả, vì oai đức uy danh và trí tuệ của Ngài bảo bọc Ngài, không
một hành động xấu xa nào có thể thắng Ngài được. Ngài có đủ phương tiện
khôn ngoan khéo léo, xoay chiều đổi hướng dễ dàng, hoán cải được tất cả
những nghịch cảnh trở thành thuận lợi. Và cuối cùng, kẻ khinh ghét Ngài
trở lại kính mến Ngài; người chống Ngài trở lại phục Ngài; kẻ ngoại đạo
trở thành Phật tử. Bằng chứng là: Đề Bà Đạt Đa cũng được Ngài thọ ký,
anh chàng Vô Não cũng được quy y, bầy voi say cũng được sám hối, vua A
Xà Thế cũng hối cải và quay về đường ngay.
Nói tóm lại, đức Phật có đủ muôn
ngàn phương tiện thích ứng với mọi người, mọi vật, mọi hoàn cảnh để hóa
độ tất cả những ai mà Ngài đã gặp trên đường truyền đạo của Ngài. Không
phải chỉ ngoài đời, mà ngay trong Giáo Hội của Ngài, Ngài cũng tùy theo
căn cơ; tâm lý của mỗi đệ tử mà áp dụng phương pháp thích hợp. Chẳng hạn
như đối với ông Nan Đà, mặc dù thân đã xuất gia mà tâm vẫn muốn ngao du,
luyến ái bạn bè, Ngài dùng thần thông để đưa ông lên cõi trời xem những
cảnh sống tốt đẹp, vui thú khác thường, rồi đưa ông xuống địa ngục mục
kích những hình phạt đau đớn rùng rợn, hãi hùng để ông so sánh hai cảnh
đời trái ngược mà tự chọn lựa lấy một đường.
Xem như thế thì Đức Phật đã dùng
phương tiện để tùy duyên hóa độ, như ông lương y giỏi tùy bệnh cho
thuốc, chứ không nhứt thiết phải theo một đường lối cố định nào cả. Đối
với kẻ thân, người thù, đối với kẻ thông minh hay người ngu độn, đối với
kẻ giàu, người nghèo, Ngài đều có đủ pháp môn cho họ khai ngộ và quy y
theo Ngài.
3. Hóa độ theo tinh thần bình
đẳng :
Tinh thần triệt để bình đẳng là
một điểm son quý giá nhất trong giáo lý của đức Phật, cũng như trong tâm
hồn của Ngài. Ngay từ khi còn ấu thơ, tinh thần ấy đã được bộc lộ trong
những cử chỉ cứu giúp những kẻ bần cùng, những con vật lâm nạn, như
chúng ta đã thấy trong bài trước.
Khi thành đạo, tinh thần bình
đẳng ấy lại bộc lộ rõ ràng hơn nữa. Ngài đã có những câu nói bất hủ,
khiến cho ngày nay, người ta vẫn đem ra làm khuôn vàng thước ngọc. Như
khi Ngài xin nước của một người thuộc giai cấp hạ tiện nhất Ấn Độ, người
này sợ làm lây ô uế cho Ngài, thì Ngài phán bảo: "Không có giai cấp
trong dòng máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng mặn. Mỗi người sanh ra đều
có Phật tánh và có thể thành Phật".
Trong Giáo hội của Ngài, Ngài
nhận cả những người thuộc giai cấp hạ tiện. Như ông Ưu Ba Ly một đệ tử
có tiếng tăm của Ngài về phương diện giới luật, là một người thuộc giai
cấp hạ tiện Chiên Đà La, làm nghề gánh phân.
Sự thâu nhận ấy đã làm cho các
vị vua chúa bất mãn. Chính vua Ba Tư Nặc đã bạch Phật: "Đấng Chí Tôn
thâu nhận kẻ hèn hạ vào hàng Tăng đồ như vậy, không ngại rằng đá sỏi lẫn
lộn với châu ngọc, làm mất giá trị của chúng Tăng sao?".
Phật dạy rằng:
"Người hèn hạ mà biết phát tâm
Bồ Đề, xuất gia tu hành, chứng được quả Thánh, thì quý báu vô cùng,
chẳng khác gì hoa sen mọc ở bùn lầy nhơ bẩn mà vẫn tinh khiết thơm
tho".
"Một người sinh ra không phải
liền thành Bà La Môn (giai cấp trên hết) hay Chiên Đà La (giai cấp thấp
nhất), mà chính vì sở hành của người ấy tạo thành Chiên Đà La hay Bà La
Môn".
Ngài xâu giùm kim cho người mù,
hoan hỷ nhận hòn đất sét mà đứa bé đã nắn để dâng Ngài, thọ lãnh bữa cơm
cuối cùng do một người đốt than nghèo nàn dâng cúng.
Chính vì sự hóa độ bình đẳng như
thế, mà kinh Đại Niết Bàn đã tán thán:
"Đức Như Lai không chỉ thuyết
pháp cho các hạng người quyền quý như vua Bạt Đề Ca, mà cũng thuyết pháp
cho hạng người bần cùng như ông Ưu Ba Ly; không riêng thọ lãnh sự cúng
dường của những người giàu có như ông Tu Đạt Đa, mà cũng thọ lãnh sự
cúng dường của các hạng nghèo khổ như ông Thuần Đà; không riêng cho phép
xuất gia các hạng không có tánh tham như Ngài Ca Diếp, mà cũng cho phép
xuất gia những người có nhiều tánh tham như ông Nan Đà; không những
thuyết pháp cho hạng người an tịnh không dự việc đời, mà cũng thuyết
pháp cho vua Tần Bà Ta La trong lúc đang bận rộn việc nước; không những
thuyết pháp cho hạng thanh niên trẻ tuổi, mà cũng thuyết pháp cho bà
Hoàng hậu Mạt Lỵ, thuyết pháp cho dâm nữ Liên Hoa
...v...v...".
NĂM
THỜI NÓI KINH :
Tóm lại, trong một đời của đức
Phật, tùy theo trình độ của mọi người mà thuyết pháp giáo hóa, mãi đến
khi Ngài nhập diệt, cộng lại là 49 năm. Những Kinh Pháp của Ngài nói ra,
về sau các đệ tử kiết tập chia ra làm năm thời :
1. Thời thứ nhất Phật nói
kinh Hoa Nghiêm :
Khi Phật mới thành đạo, ở tại
cội Bồ Đề, nói kinh Hoa Nghiêm 21 ngày, vạch rõ chân tánh, chỉ bày chỗ
cao sâu mầu nhiệm của đạo Phật. Chủ đích có hai điều :
a) Dắt dẫn các bậc Bồ Tát lên
địa vị Đẳng Giác và Diệu Giác.
b) Nêu bày giáo pháp rốt ráo của
Như Lai, chỉ có Phật với Phật mới rõ mà thôi; ngoài ra hàng Nhị thừa
ngồi nghe như đuôi, như điếc, huống chi ngoại đạo tà giáo làm sao hiểu
nổi ! Đức Phật trình bày giáo pháp siêu việt tuyệt vời ấy, là muốn cho
đại chúng phải tu theo Đại Thừa Phật Giáo mới được hoàn toàn rốt
ráo.
2. Thời thứ hai Phật nói Kinh A
Hàm :
Biết rằng: "Muốn đi xa phải do
nơi gần, muốn lên cao phải từ nơi thấp", Đức Thích Ca y theo chư Phật mà
nói pháp Tam Thừa. Vì vậy thời thứ hai, Ngài nói kinh A Hàm trọn 12 năm,
dùng thí dụ thật tế, chỉ rõ chân lý cho hàng Tiểu Thừa dễ thừa nhận, mà
lo bề tự tu và tự độ.
3. Thời thứ ba Phật nói Kinh
Phương Đẳng :
Đức Phật chẳng những dạy pháp
giác ngộ phần mình mà Ngài còn chỉ bày phương pháp giác tha nữa, tức là
khuyến khích từ cái giác ngộ tiêu cực nhỏ hẹp của Tiểu Thừa (A La Hán)
để tiến lên cái giác ngộ tích cực bao la của Đại Thừa Phật Giáo. Ấy là
thời nói kinh Phương Đẳng trọn 8 năm, dẫn Tiểu Thừa qua Đại
Thừa.
4. Thời thứ tư Phật nói Kinh
Bát Nhã :
Đến khi đức Phật xem căn cơ của
chúng sanh có thể tiến lên một tầng cao nữa là hấp thụ được hoàn toàn
giáo pháp Đại Thừa, nên Ngài chỉ bày đạo lý chân không của vũ trụ,
thuyết minh cái thật tướng vô tướng của các pháp. Ấy là thời nói Kinh
Bát Nhã trọn 22 năm.
5. Thời thứ năm Phật nói Kinh
Pháp Hoa và Niết Bàn :
Sự hóa độ một đời của Phật gần
viên mãn, thêm thấy căn cơ chúng sanh đã thuần thục, có thể gánh vác Đại
Thừa chánh pháp của Như Lai, nên Ngài bèn nói rõ bản hoài của Ngài thị
hiện ra đời là vì một nguyên nhân lớn: "Khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri
Kiến Phật !". Ngài phú chúc, thọ ký cho các hàng đệ tử, tương lai sẽ
thành Phật . Ấy là thời nói Pháp Hoa và Niết Bàn trọn 8 năm . Đến đây
nhiệm vụ thuyết pháp độ sanh của đời Ngài đã viên mãn
.
SỰ HÓA ĐỘ VIÊN MÃN :
Từ khi thành đạo dưới gốc cây Bồ
Đề cho đến ngày nhập diệt, trải qua một thời gian 49 năm, Đức Phật đã đi
khắp xứ Ấn Độ rộng lớn bao la, hết nước này đến nước khác. Hễ chỗ nào có
chân Ngài giẫm đến là ánh Đạo vàng bừng tỏa huy hoàng.
Mỗi ngày, Ngài theo một thời
dụng biểu, một chương trình nhất định, không bao giờ xao lãng, giải đãi,
từ khi trẻ cho đến già, từ mùa mưa cho đến mùa nắng. Mỗi ngày, khi trời
chưa sáng, Ngài đã lìa khỏi giường đi tắm rửa, thay đổi y phục rồi vào
phòng quán cơ cho đến lúc mặt trời xuất hiện. Sau đó Ngài thuyết pháp
cho chúng Tăng đến lúc trưa mới nghỉ để thọ trai .
Buổi chiều, Ngài thuyết pháp cho
tín đồ ở các vùng lân cận đến nghe; rồi lại giảng giải những nghi vấn
của các chúng Tăng về những vấn đề mà Ngài đã thuyết pháp buổi
sáng.
Mỗi năm, Ngài đi chu du để
thuyết pháp độ sanh trong chín tháng nắng ráo còn ba tháng về mùa hạ có
mưa lớn (theo thời tiết Ấn Độ), thì Ngài lại ở luôn trong các tịnh xá để
an cư kiết hạ.
Ròng rã 49 năm như thế, hạt
giống từ bi được Ngài tinh tấn gieo khắp các xứ ở Ấn Độ. Từ Bắc chí Nam,
từ Đông sang Tây, từ rừng núi đến đồng bằng, không nơi nào là Ngài không
đặt chân đến, hay truyền lệnh cho đệ tử đến thay Ngài để hóa độ chúng
sanh . Và ở đâu Ngài và các đệ tử cũng được nhân dân, từ vua đến dân, từ
giàu đến nghèo, từ già đến trẻ, từ phái nam đến phái nữ, đổ xô ra đón
tiếp Ngài, vui thú được tắm gội trong ánh sáng Trí Tuệ và nước Từ Bi do
Ngài tưới xuống. Ở đâu có ánh Đạo vàng đến, thì tà giáo và ngoại giáo
lui xa dần, tan biến như những làn mây, như những bóng tối tan biến
trước bình minh đang lên. Giọng thuyết pháp của Ngài có cái oai lực như
tiếng sư tử rống, làm cho cầm thú phải khiếp phục, như tiếng hải triều
lên, lấn át tất cả bao nhiêu tiếng tỉ tê của côn trùng, chim
chóc.
Đạo Bồ Đề từ đấy đã ăn sâu gốc
rễ trên bán đảo Ấn Độ bao la, và trở thành một tôn giáo chính của các
nước lớn, nhỏ thời bấy giờ tại Ấn Độ. Đức Phật sau khi tự giác, đã giác
tha và đến đây giác hạnh của Ngài đã viên mãn.
TRƯỚC KHI NHẬP NIẾT
BÀN:
1. Phật báo tin sắp lìa cõi đời
:
Khi giác hạnh của Ngài đã viên
mãn thì Phật đã 80 tuổi. Đến đây, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo
luật vô thường mà biến đổi, yếu già. Năm ấy Ngài vào hạ ở rừng Sa La
trong xứ Câu Ly, cách thành Ba La Nại chừng 129 dặm.
Một hôm, Ngài gọi ông A Nan,
người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến và phán bảo :
- "A Nan ! Đạo ta nay đã viên
mãn. Như lời nguyện xưa, nay ta đã có đủ bốn hạng đệ tử: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
Ni, Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe Pháp, và
Đạo cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các người mà ra
đi. Thân hình ta, theo luật vô thường, bây giờ như một cỗ xe đã mòn rã.
Ta đã mượn nó để chở Pháp cũng đã lan khắp nơi, vậy ta còn mến tiếc làm
gì trong cái thân tiều tụy này nữa? A Nan ! Trong ba tháng nữa ta sẽ
nhập Niết Bàn".
Tin đức Phật sắp vào Niết Bàn,
lan ra như một tiếng sét. Các đệ tử Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa,
lục tục trở về để cùng đấng Giác Ngộ chia ly lần cuối.
Trong thời gian ba tháng cuối
cùng của Ngài, đức Phật vẫn không nghỉ ngơi, mà vẫn tiếp tục đi truyền
đạo.
Một hôm, Ngài đi thuyết pháp
ngang qua một khu rừng, gặp một người làm nghề đốt than, ông Thuần Đà,
thỉnh Ngài về nhà để thọ trai. Ngài im lặng cùng các đệ tử đi theo ông.
Đến nhà, ông Thuần Đà dọn ra cúng dường Ngài một bát cháo nấm, thường
gọi là nấm heo rừng, vì thứ nấm này rất được giống heo rừng ưa
thích.
Thọ trai xong, Phật cùng các đệ
tử lại từ giã ông Thuần Đà ra đi. Được một khoảng đường, Ngài giao bình
bát cho ông A Nan và truyền treo võng lên trong rừng cây Ta La (Tàu dịch
là Song Thọ: cây có hai cành lớn chia ra như cái nạn) để Ngài nằm nghỉ.
Ngài nằm xuống võng giữa hai cây Ta La, đầu trở về hướng Bắc, mình
nghiêng về phía tay phải, mặt xây về phía mặt trời lặn, hai chân tréo
vào nhau.
Nghe tin Ngài sắp nhập Niết Bàn,
dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông, trong số ấy có một ông già
ngoài tám mươi tuổi, tên Tu Bạt Đà La đến xin xuất gia thọ giới Sa Di
với Ngài. Ngài hoan hỷ nhận lời. Đó là người đệ tử chót trong đời
Ngài.
2. Phật nói Kinh Di Giáo và
những lời phú chúc:
Lúc bấy giờ các đệ tử Ngài đều
có mặt đông đủ, chỉ trừ ông Ca Diếp vì đi thuyết pháp xa, chưa kịp về.
Ngài hội tất cả đệ tử và tín đồ đến quanh Ngài và dặn dò một lần cuối.
Ngài phú chúc như sau:
a) Y, bát của Ngài sẽ truyền cho
ông Ma-Ha Ca-Diếp.
b) Các đệ tử phải lấy giới luật
làm thầy.
c) Ở đầu các Kinh, phải nêu lên
5 chữ :"Như thị ngã văn".
d) Xá lợi của Ngài sẽ chia làm 3
phần :
Sau đây là lời vàng ngọc của
Ngài đã để lại trong giờ phút cuối cùng :
"Này ! Các người phải tự thắp
đuốc lên mà đi ! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc ! Hãy theo Pháp
của ta mà tự giải thoát ! Đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng
tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người
! ...".
"Này ! Các người đừng dục vọng
mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ
tan rã. Chỉ có Đạo ta là quý báu. Chỉ có Chân lý của Đạo ta là bất di,
bất dịch. Hãy tinh tấn lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của
ta !".
Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong,
Ngài nhập định rồi vào Niết Bàn. Lúc bấy giờ nhằm ngày Rằm tháng hai âm
lịch (theo giáo sử Trung Hoa).
Rừng cây Ta La tuôn hoa xuống
phủ lên thân Ngài, trời đất u ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng
hót, vạn vật như chìm lặng trong những giây phút nặng nề của sự chia
ly.
Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vào
kim quan và bảy ngày sau, đưa kim quan Ngài vào thành Câu Thi để tại
chùa Thiện Quang và làm lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu).
Tám vị Quốc Vương lớn ở Ấn Độ
kéo binh hùng tướng dũng đến toan tranh giành Xá Lợi. Nhưng ông Hương
Tích y theo di chúc của Phật, đứng ra điều đình, và nhờ thể sự phân chia
xá lợi đều được ổn thỏa.
C. KẾT LUẬN :
Đức Phật đã nhập Niết Bàn, nhưng
gương sáng của đời Ngài vẫn còn chiếu sáng rực trước mắt chúng ta. Suốt
một đời, trong 80 năm trời, không một lúc nào Ngài xao lãng mục đích tối
thượng là hóa độ chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ. Khi còn tại
gia, Ngài là người ở trong địa vị có diễm phúc nhất, cao nhất của người
đời, thế mà Ngài vẫn không màng tưởng đến; khi vào trong đạo, Ngài là
người ở trong địa vị cao chót vót của Đạo, thế mà Ngài vẫn không chịu ở
yên trong địa vị ấy, lại vất vả duỗi rong trên mọi nẻo đường bụi bặm,
gai góc để đưa dắt chúng sanh lên con đường hạnh phúc an vui và giải
thoát hoàn toàn. Lòng thương của Phật thật là vô lượng, ân đức của Phật
thật là vô biên .
1. Người đời nên noi gương
sáng của Phật :
Sự hy sinh cao cả, lòng từ bi
rộng lớn, trí tuệ sáng suốt, ý chí dũng mãnh của Ngài không những là bao
nhiêu gương sáng cho riêng hàng Phật tử, mà còn cho tất cả mọi người.
Nếu chúng ta quan niệm Ngài là một vĩ nhân, thì đó là một vĩ nhân trên
hết các vĩ nhân của nhân loại từ xưa đến nay. Nếu chúng ta quan niệm
Ngài là bậc siêu nhân, thì đó là một siêu nhân cao hơn bao nhiêu bậc
siêu nhân khác. Nếu chúng ta quan niệm đời Ngài là một sự thị hiện của
Phật, thì đó là sự thị hiện đẹp đẽ nhất và đầy đủ ý nghĩa hơn hết trong
các sự thị hiện .
Cho nên không những đối với tín
đồ Phật Giáo, mà đối với toàn thể mọi người, Đức Phật đáng được kính cẩn
tôn sùng và chiêm ngưỡng .
2. Tín đồ nên ghi nhớ những
lời di chúc của Phật :
Chúng ta, những Phật tử, ai cũng
biết đời Đức Phật là đẹp đẽ, cao cả; bài học của đời Ngài là quý báu,
sâu xa. Nhưng nếu chúng ta không cố gắng học tập, thì bài học dù hay ho
quý báu bao nhiêu cũng vô ích. Đức Phật, trước khi nhập diệt, đã dặn
chúng ta một câu cuối cùng:
" Mọi vật ở đời không có
gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có Đạo ta là quý báu. Chỉ có
Chân lý của Đạo ta là bất di bất dịch. Hãy tinh tấn lên để giải thoát
!".
Vậy thì điều kiện trọng yếu nhất
để giải thoát là sự tinh tấn . Chúng ta đừng bao giờ quên điều kiện ấy
trong sự tu hành !
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật !
( Phật Học Phổ Thông -
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa )_______________________________________________________
- NIÊN LỊCH CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI
- (Theo Kinh Điển Đại Thừa)