Thiền Sư ĐẠO TRUNG THIỆN HIẾU
(TỔ
ĐỈA)-(Đời thứ 38, tông Lâm Tế)
Thiền sư Thiện Hiếu húy Đạo Trung, thường được tôn gọi
là Tổ Đỉa, thuộc phái thiền Lâm Tế ở Đàng Trong thế hệ
thứ 38.
Hiện chưa biết rõ tên tục, quê quán và hành trạng, chỉ
biết rõ Tổ Đỉa là vị khai sơn chùa Linh Sơn trên núi Bà
Đen (Tây Ninh) và chùa Long Hưng (thường được gọi là
chùa Tổ) ở tỉnh Sông Bé.
Theo truyền thuyết, Thiền sư Thiện Hiếu từ chùa Bà Tang
(?) đi qua chùa núi Bà Đen (Tây Ninh), thường ghé nghỉ
tạm dưới một gốc cây trâm ở ven “Bưng Đỉa”, thuộc Cầu
Định (tỉnh Thủ Dầu Một ngày xưa). Gọi là Bưng Đỉa vì
vùng bưng này đất phì nhiêu nhưng có rất nhiều đỉa. Nông
dân ở Bưng Đỉa nghèo nàn vì thiếu ruộng trồng lúa trong
khi bưng lại bỏ hoang vì đỉa. Dù nghèo nhưng nông dân ở
đây thấy Sư thường nghỉ đêm ở gốc cây trâm ven bìa Bưng
Đỉa nên phát tâm dựng cho Sư một am tranh để nghỉ ngơi
trên đường vân du hoằng hóa. Trong lúc đó, Sư thấy dân ở
địa phương có được một vùng đất bưng phì nhiêu và rộng
lớn nhưng lại phải bỏ hoang vì nạn đỉa nhiều. Một hôm,
Sư ra giữa Bưng Đỉa ngồi thiền để cầu nguyện cho các con
đỉa ở đó được vãng sanh, cho bưng bớt đỉa hầu giúp dân
chúng có thể làm ruộng trồng lúa được.
Khi Sư ngồi thiền, đỉa bu quanh và bò lên mình Sư rất
nhiều, nhưng Sư vẫn an nhiên tiếp tục ngồi như không.
Trong các con đỉa bám vào mình Sư, có một con đỉa trắng
rất to (có lẽ là đỉa chúa) bò lên nằm ngay trên đỉnh đầu
của Sư. Sư vẫn tiếp tục ngồi thiền, con đỉa trắng to từ
đỉnh đầu Sư rơi xuống nước và chết, một số đỉa nhỏ khác
quanh đó cũng tự nhiên chết. Sau đó, vùng Bưng Đỉa, số
đỉa giảm dần và người dân địa phương bắt đầu xuống bưng
làm ruộng được và dần dần vùng Bưng Đỉa bị bỏ hoang trở
thành một vùng ruộng lúa phì nhiêu, người dân địa phương
trồng trọt được, làm ăn phát đạt và sung túc hơn. Từ đó
dân địa phương tôn gọi Sư là “Tổ Đỉa”. [Lúc còn đương
thời, dân địa phương vì tôn quí Sư nên gọi Sư là Tổ, Sư
không cho và dạy khi nào Sư tịch đem thiêu nếu còn để
lại một cánh tay thì hãy gọi Sư là Tổ. Quả nhiên khi Sư
tịch đem thiêu còn lại một cánh tay, chứng tỏ Sư là
người đã đắc đạo]Năm Giáp Dần (1794) dân địa phương bỏ
am tranh của Tổ Đỉa, lập thành một ngôi chùa lớn, được
Tổ đặt tên là Long Hưng, nhưng dân địa phương ít gọi tên
chùa Long Hưng mà thường gọi là chùa Tổ.
Theo lời truyền Tổ Đỉa lập tất cả bảy ngôi chùa (hiện
chúng ta chỉ biết hai chùa: Linh Sơn và Long Hưng).
Ngày 20 tháng 12 năm Kỷ Mùi [Năm Kỷ Mùi có thể là năm
1859 hay 1799] vào giờ Mùi, Tổ Đỉa viên tịch tại chùa
Long Hưng. Đồ chúng lập tháp thờ trong khuôn viên chùa.
Phổ hệ truyền thừa của Thiền sư Thiện Hiếu
Thiền Sư NHƯ NHÃN TỪ PHONG
(1864 - 1938)-(Đời thứ 39, tông Lâm Tế)
Thiền sư Từ Phong, húy Như Nhãn, tên là Nguyễn Văn
Tường, sanh năm Giáp Tý (1864), niên hiệu Tự Đức thứ 18,
tại thôn Đức Hòa thượng (sông Tra), tổng Dương Hòa
thượng, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (quận Đức Hòa,
tỉnh Long An sau này).
Cha mẹ là nông dân, năm Canh Thìn (1880), cha mẹ định lo
cưới vợ cho, nhưng Nguyễn Văn Tường bỏ nhà lên chùa
Thiền Lâm tại làng Hiệp Ninh quận Châu Thành, tỉnh Tây
Ninh qui y thọ giáo với Thiền sư Minh Đạt. Sau khi tu
học ở đây một thời gian, Nguyễn Văn Tường xuống chùa
Giác Viên (làng Bình Thới, Gia Định) xin thọ giáo với
Thiền sư Minh Khiêm Hoằng Ân, được ban pháp danh là Từ
Phong, húy Như Nhãn; lúc đó sư Từ Phong cũng đã thông
hiểu kinh pháp nên được Thiền sư Hoằng Ân cử làm thơ ký
ở chùa Giác Viên.
Năm 1887, bà Trần Thị Liễu, quê ở làng Tân Hòa Đông (Phú
Lâm), xây dựng xong một ngôi chùa; bà đến xin Thiền sư
Hoằng Ân cử Sư về chùa mới này để lo hoằng dương Phật
pháp. Thiền sư Hoằng Ân đặt tên chùa là Giác Hải và cử
sư Như Nhãn Từ Phong về trụ trì chùa này.
Năm Kỷ Dậu (1909), chùa Long Quang ở Châu Thành Vĩnh
Long khai trường Hương, thỉnh Thiền sư Từ Phong làm Pháp
sư.
Năm Kỷ Mùi (1919), Thiền sư Chánh Hậu (thường được gọi
là Hòa thượng Tồn) ở chùa Vĩnh Tràng (chợ cũ-Mỹ Tho)
khai trường Hương, Thiền sư Từ Phong được thỉnh làm Pháp
sư.
Cũng trong năm đó, bà Trần Thị Thọ cũng muốn khai trường
Hương tại chùa Bửu Long của bà ở thôn Trung Tín, tổng
Bình Trung huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Thiền sư
Chánh Hậu phải nhờ Thiền sư Từ Phong và sư Trụ trì chùa
Long Quang (Vĩnh Long) xin bà Thọ dời lại năm sau. Vì
vậy, năm Canh Thân (1920) chùa Bửu Long ở Vũng Liêm
(Vĩnh Long) khai trường Hương, Thiền sư Từ Phong cũng
được thỉnh làm Pháp sư.
Trong khoảng thời gian 1920-1925, Thiền sư Từ Phong xây
dựng một chùa mới ở Gò Kén, thôn Thái Hiệp Thạnh, gần
tỉnh lỵ Tây Ninh, đặt tên là chùa Thiền Lâm, để nhớ lại
chùa Thiền Lâm xưa của Thiền sư Minh Đạt ở châu thành
Tây Ninh (chùa này nhỏ hẹp, không có đất trống nên không
thể xây cất lớn hơn được).
Năm 1926, đạo Cao Đài ở Tây Ninh mới thành lập, chưa có
trụ sở chánh thức, đã phải mượn Thiền sư Từ Phong chùa
Thiền Lâm để thiết Đàn, cầu cơ bút. Sau đó, đạo Cao Đài
mới xây dựng Thánh thất ở Long Hoa (Tây Ninh).
Nhờ ảnh hưởng của phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Trung
Hoa sau Cách mạng Tân Hợi (1911), ở Việt Nam cũng dấy
lên phong trào Chấn hưng Phật giáo.
Trong thời gian 1911-1930 phong trào Chấn hưng Phật giáo
ở Nam Kỳ phát triển nhờ hoạt động tích cực của chư thiền
đức nổi danh thời đó như Hòa thượng Khánh Hòa Như Trí
(chùa Tuyên Linh quận Mỏ Cày, Bến Tre), Hòa thượng Minh
Khiêm Hoằng Ân (chùa Giác Lâm), Hòa thượng Chân Thanh Từ
Văn (chùa Hội Khánh-Thủ Dầu Một); Thiền sư Thiện Chiếu
(chùa Linh Sơn-Sài Gòn), Thiền sư Như Phòng Hoằng Nghĩa
(chùa Giác Viên-Phú Lâm), Thiền sư Như Nhãn Từ Phong
(chùa Giác Hải)... Thiền sư Từ Phong tuy học vấn không
nổi tiếng uyên bác, nhưng tác phong đạo đức cao, có óc
canh tân và nhiệt tâm xiển dương chánh pháp, cố hết sức
lo chỉnh lý lại tăng đồ và cải cách sinh hoạt Phật giáo
để trừ các tệ đoan trong Phật giáo Việt Nam (nhất là ở
Nam Kỳ).
Năm 1920, Hòa thượng Từ Phong hợp cùng Hòa thượng Khánh
Hòa (chùa Tuyên Linh) vận động thành lập “Hội Lục Hòa”
hay “Lục Hòa Liên Hiệp” để đoàn kết chư tăng trong những
ngày giỗ Tổ ở các chùa và phát động phong trào Chấn hưng
Phật giáo Nam Kỳ. [Hội Lục Hòa này không phải là “Lục
Hòa Tăng” được thành lập vào năm 1952 sau này]
Trong thời gian 1920-1930, các chùa lớn thường mở trường
Hương hoặc mở các lớp giảng dạy kinh, luật...Hòa thượng
Khánh Hòa và Hòa thượng Từ Phong thường được thỉnh làm
Pháp sư. Hòa thượng Từ Phong và Hòa thượng Khánh Hòa có
công trong việc phát triển Phật giáo ở Nam Kỳ.
-
Năm 1931 “Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học” đặt trụ sở tại
chùa Linh Sơn (149 đường Cô Giang Sài Gòn). Hội ra tạp
chí “Từ Bi Âm” (năm 1932) để truyền bá giáo lý, thỉnh
Tam tạng kinh từ Trung Hoa về tàng trữ ở Pháp Bảo Đường
ở chùa Linh Sơn.
-
Năm 1933, “Liên Đoàn Học Xã” được thành lập ở Nam Kỳ để
đào tạo tăng tài và hoằng dương Phật pháp. Các chùa luân
phiên mở Phật học đường ba tháng, mỗi chùa phải lo nuôi
ăn ở cho tăng sinh ba tháng và lo thỉnh Pháp sư giảng
dạy. Nhưng Liên Đoàn Học Xã chỉ hoạt động một thời gian
ngắn thì gặp nhiều khó khăn, phải tan rã.
-
Năm 1934, “Hội Lưỡng Xuyên Phật Học” được thành lập. Hội
này mở “Phật Học Đường Lưỡng Xuyên” ở Trà Vinh để đào
tạo Tăng Ni (năm 1935, trường ni dời về chùa Vĩnh Bửu ở
Thôm-Bến Tre). Phật Học Đường Lưỡng Xuyên đào tạo được
một số tăng sĩ nổi danh sau này như Chư Hòa thượng:
Thích Thiện Hòa, Thích Thiện Hoa, Hành Trụ, Quảng
Liên... Hội này xuất bản tạp chí Duy Tâm Phật Học để làm
cơ quan hoằng pháp.
Hòa thượng Huệ Quang (chùa Long Hòa,Trà Vinh) làm chánh
Tổng lý, Hòa thượng An Lạc (chùa Vĩnh Tràng-Mỹ Tho) làm
chánh Hội trưởng, Hòa thượng Khánh Anh làm Pháp sư và
Hòa thượng Từ Phong giữ chức Đại đạo sư.
Năm Mậu Dần (1938), Hòa thượng Như Nhãn Từ Phong viên
tịch tại chùa Thiền Lâm (Tây Ninh), thọ 74 tuổi. Đồ
chúng lập tháp thờ tại chùa Thiền Lâm và Giác Hải.
Thiền sư HẢI BÌNH BẢO TẠNG
(1818 - 1862)-(Đời thứ 40, tông Lâm Tế)
Thiền sư Bảo Tạng, húy Hải Bình, thuộc thế hệ 40 của
phái thiền Lâm Tế, chi phái Liễu Quán (truyền theo bài
kệ: “Thiệt Tế Đại Đạo, Tánh Hải Thanh Trừng...”) tên tục
là Lê Chi [Tên tục của Thiền sư Bảo Tạng là Lê Chi quê ở
làng Nguyễn Chi theo lời kể của Sư Minh Đức, Trụ trì
chùa Cổ Thạch], quê ở làng Nguyễn Chi thuộc Phú Yên,
sanh năm Mậu Dần (1818).
Thiền sư Bảo Tạng qui y thọ giới với Hòa thượng Sơn Nhân
(tức Thiền sư Tánh Thông Giác Ngộ), ở chùa Bát Nhã trên
núi Long Sơn (Phú Yên).
Sau thời gian tu học ở chùa Bát-nhã, Thiền sư Bảo Tạng
cùng hai sư huynh là Thiền sư Bảo Thanh và Bảo Chân vân
du hoằng hóa về phương Nam. Trong khi hai sư huynh Bảo
Thanh và Bảo Chân vào hoằng hóa ở vùng Đồng Nai (miền
đông Nam Bộ ngày nay), Thiền sư Bảo Tạng đến núi Trà
Bang (làng Bình An-Phú Quí-Phan Rang) tu hành. Sau đó,
sư Bảo Tạng đến vùng Vĩnh Hảo, lập chùa Linh Sơn để
hoằng dương Phật pháp ở vùng Phan Rang-Phan Rí.
Năm 1845, Thiền sư Bảo Tạng đến hoằng hóa ở núi Cổ
Thạch, cách xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Thuận
Hải về phía đông bắc 2km [Cổ Thạch ở sát bờ biển, thuộc
xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Thuận Hải, cách
thành phố Hồ Chí Minh gần 300km]. Hương hào Hồ Công Điểm
ở xã Bình Thạnh không có con, gặp Thiền sư Bảo Tạng xin
cầu tự, sau đó vợ ông Điểm sanh một trai và một gái.
Mang ơn đó, và tin theo Phật pháp do Thiền sư Bảo Tạng
giảng dạy, ông Điểm phát tâm xây dựng một ngôi chùa bằng
cây, lợp lá rất khang trang ở Cổ Thạch. Sau một thời
gian ngắn ở chùa Cổ Thạch, Thiền sư Bảo Tạng lại tiếp
tục vào phương Nam bằng đường biển.
Thiền sư Bảo Tạng đến Bào Trâm, gần mũi Kê Gà (Hàm Tân)
hoằng dương Phật pháp. Sư Thông Ân khai sơn chùa Kim
Quang nghe danh tiếng sư Bảo Tạng nên đến thỉnh sư Bảo
Tạng về chùa và xin thọ giới cụ túc với Thiền sư Bảo
Tạng được ban pháp danh là Hữu Đức.
Trong thời gian hoằng hóa ở vùng Tam Phan (Phan
Rang-Phan Rí-Phan Thiết), có lần Thiền sư Bảo Tạng vân
du vào vùng Đồng Nai thăm hai sư huynh là Bảo Thanh và
Bảo Chân.
Trong thời gian hoằng hóa ở Bào Trâm, Thiền sư Bảo Tạng
tìm được đường ngầm vào núi Trà Cú [Núi Trà Cú ở gần Hàm
Tân (tỉnh Thuận Hải), cách Phan Thiết 26km, và cách
thành phố Hồ Chí Minh 173km về phía Bắc.] và nhận thấy
núi này là nơi “địa linh”, có nhiều long mạch hội tụ,
Thiền sư Bảo Tạng tu hành trong một hang đá gần đỉnh núi
Trà Cú, phía dưới hang có mạch nước trong mát, sau này
được gọi là “hang Tổ”.
Thiền sư Bảo Tạng khi đến hang này thì cả núi là rừng
sâu hoang vắng, là nơi hang ổ của các loài cọp sói. Sư
xuống bàn thạch dưới hang tọa thiền, khi đói chỉ dùng
rau rừng qua ngày. Ngài tu như thế trải mấy năm dài, dần
dần cọp sói trở thành là bạn thân thiết với Ngài. Nhờ ý
chí quả cảm liều chết để tu hành, Ngài đắc đạo nơi đây.
Sau đó, do những người đi rừng phát giác được chỗ Ngài
tu, họ về xóm gần núi báo tin cho nhau hay, rồi rủ nhau
lên núi đảnh lễ Ngài và chặt cây bện tranh cất cho Ngài
một chiếc am để ở tu. Khi ra khỏi hang thì râu tóc Ngài
dài lượt thượt, bởi mấy năm không có phương tiện cạo.
Khi vào ở trong am, mỗi tối Ngài tọa thiền, hoặc tụng
kinh đều có hai con cọp hầu bên cạnh. Chiếc am tranh
này về sau trở thành chùa Tổ, hai con cọp đã chết, được
các sư trong chùa cất ngôi miếu nhỏ bên cạnh chùa thờ,
gọi là miếu Ông Hổ.
Thời gian sau, Thiền sư Bảo Tạng rời am theo đường biển
vào phía Nam, để đệ tử là Hữu Đức ở lại am tu hành. Sau
này sư Hữu Đức dựng chùa Linh Sơn Trường Thọ ở phía dưới
thấp trước hang Tổ để hoằng hóa (cách hang Tổ độ vài
trăm thước).
Thiền sư Bảo Tạng đến núi Châu Viên ở Phước Hải (Đất Đỏ,
Bà Rịa), huyện Long Đất, Bà Rịa-Vũng Tàu lập chùa để
hoằng hóa, đặt tên chùa Châu Viên Sơn Tự, sau đó Thiền
sư Bảo Tạng còn trùng tu và trông coi nhiều chùa khác ở
vùng Bà Rịa như chùa Long An, chùa Bửu An, chùa Long
Hưng...Có thể Tổ Bảo Tạng lập chùa hay trùng hưng chùa
Bửu Long ở xã Phước Hải (huyện Đất Đỏ tỉnh Bà Rịa nay
thuộc huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu), vì chùa này
từ xưa đến nay vẫn làm lễ giỗ Tổ vào ngày 25 tháng 5,
tức nhằm đúng ngày Tổ Bảo Tạng viên tịch và chùa Bửu
Long nằm sát bờ biển (ngay vị trí trường phổ thông cơ sở
Phước Hải ngày nay), từ đó đi vào đất liền khoảng 2km
mới đến núi Kỳ Vân và núi Châu Viên. Tổ Bảo Tạng lập
chùa “Châu Viên Sơn Tự” trên núi Châu Viên và chùa Ngọc
Tuyền trên núi Kỳ Vân.
Năm Nhâm Ngọ (1858), Thiền sư Bảo Tạng ở chùa núi Châu
Viên in lại sách Kim Cang Chú Giải (chữ Nho), được sự
chứng minh của sư huynh là Hòa thượng Bảo Thanh ở chùa
núi Chứa Chan. Sách này do Tôn giả Qui Pháp chú giải và
Tôn giả Qui Phật tập chú.
Sau đó, Thiền sư Bảo Tạng có thể về trụ trì chùa Thạch
Sơn, Phú Yên.
Năm Tân Dậu (1861), Thiền sư Bảo Tạng lại lo viết chữ để
khắc lên bảng gỗ để in sách Kim Cang Diễn Nghĩa.
Kế sau đó, Thiền sư Bảo Tạng lại vào hoằng hóa ở chùa
Ngọc Tuyền trên núi Kỳ Vân (xã Phước Hải, huyện Long
Đất, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu).
Thiền sư Hải Bình Bảo Tạng viên tịch tại chùa Ngọc
Tuyền, trên bia có ghi:
“Từ Lâm Tế chánh tông, tứ thập thế, húy Hải Bình, thượng
Bảo hạ Tạng Hòa thượng Giác linh.” (Giác linh Hòa thượng
Hải Bình Bảo Tạng đời thứ 40, Phái Lâm Tế chánh tông.)
Hàng bên phải ghi: “Mậu Dần... sanh” (sanh năm Mậu Dần).
Hàng bên trái ghi: “Tử ư Nhâm Tuất niên, ngũ ngoạt, nhị
thập ngũ nhật, Dần nhi trung” (mất giờ Dần, ngày 25
tháng 5 năm Nhâm Tuất 1862).
Bảo tháp của Thiền sư Bảo Tạng ở chùa Ngọc Tuyền bị hư
chút ít, bia tháp bằng đá xanh bị bể nhưng còn đầy đủ
như trên.
Chùa Long Quang (Bà Rịa, Vũng Tàu) vẫn thờ cúng Tổ Bảo
Tạng và cúng giỗ hàng năm.
Thiền Sư NGỘ CHÂN
(Hòa thượng LONG CỐC)
Thiền sư Ngộ Chân thuộc phái thiền Lâm Tế, chưa rõ năm
sanh, chỉ biết Sư đến lập chùa Hang ở trên núi Chứa Chan
(hay núi Gia Ray), ở khe Gia Lào để tu hành, Sư gọi hang
núi này là “Long Cốc” (hang Rồng) vì vậy Thiền sư Ngộ
Chân còn được tôn gọi là “Hòa thượng Long Cốc”.
Trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí có kể về Thiền sư Ngộ
Chân như sau:
“Núi Chứa Chan ở phía Bắc huyện Phước Khánh (Long Khánh
ngày nay) 56 dặm, núi cao sừng sững giữa khu rừng rậm
hoang vu. Gần chân núi có khe Gia Lào, giáp giới huyện
Long Khánh và huyện Phước Bình. Núi có nhiều gỗ quí, có
cả cây trầm hương, và nhiều loại dây mây tàu. Ở lưng
chừng núi có thạch động và giếng đá, Thiền sư Ngộ Chân
đến đó để tu.
Sau khi Thiền sư Ngộ Chân vân du (hoằng hóa ở nơi khác),
thổ dân nhớ tưởng Sư là người đắc đạo nên lấy đất đá lấp
cửa động lại.”
Sau đó, Thiền sư Ngộ Chân đến núi Trấn Biên (hay núi Mô
Xoài, nay gọi là núi Dinh, ở gần Bà Rịa) lập chùa Đức
Vân để tu trì.
Thiền sư Ngộ Chân tịch cốc (không ăn cơm), chỉ ăn rau
quả, tu hành khổ hạnh tinh nghiêm, đạt được đạo quả nên
giáo hóa được cả thú dữ (hùm beo, trăn rắn...), dùng Mật
tông trị bệnh cho bá tánh. Trong sách Gia Định Thành
Thông Chí, An toàn hầu Trịnh Hoài Đức có kể về Thiền sư
Ngộ Chân như sau:
“Núi Trấn Biên tục danh núi Mô Xoài (hay núi Mỗi Xuy)
cách phía đông trấn Biên Hòa 154 dặm. Hình núi cao ngất,
xanh um, có những hang nai, đồi thông, mây phủ, suối
reo, cảnh trí u tịch, chầu về Gia Định, hình dung dãy
núi thanh tú, trải rộng thênh thang. Lưng chừng núi lại
có động đá thâm u khuất khúc chật hẹp, đi vào không cùng
tận. Có thầy tăng tịch cốc tên là Ngộ Chân, cất chùa Đức
Vân nơi cửa động để tu trì; hằng ngày chỉ ăn rau quả để
niệm Phật, luyện tập được cả hùm beo; lại hay vẽ bùa
chữa bệnh, thâu được lễ tạ thì đem phân phát cho những
người nghèo đói khốn khổ, cũng là một vị cao tăng đắc
đạo vậy.” [Gia Định Thành Thông Chí. Bản dịch của Tu
Trai Nguyễn Văn Tạo,quyển thượng, trang 17]
Hòa Thượng HOÀNG LONG
(
? - 1737)-(Hoằng hóa ở trấn Hà Tiên)
Hòa thượng Hoàng Long quê ở Bình Định vân du vào Hà
Tiên, đến ở phía Bắc núi Vân Sơn 5 dặm lập chùa tu hành
(sau gọi là núi Bạch Tháp). Cảnh chùa thanh tịnh, u
tịch, thế núi quanh co, có cây cảnh đẹp.
Hòa thượng Hoàng Long vào hoằng hóa ở Hà Tiên vào thời
Tổng binh Cửu Ngọc Hầu Mạc Cửu (?-1735). Cửu Ngọc Hầu
Mạc Cửu là một Phật tử thuần thành, có liên hệ với chùa
Thập Tháp Di-đà ở Bình Định, có lẽ do đó mà Hòa thượng
Hoàng Long vào Hà Tiên hoằng dương Phật pháp.
Năm Ất Mão (1735), Cửu Ngọc Hầu Mạc Cửu chết, con là Mạc
Thiên Tứ được chúa Nguyễn Phước Trú ban cho chức Khâm
Sai Đô Đốc, tước Tông Đức Hầu, thay thế cha cai trị trấn
Hà Tiên.
Năm Bính Thìn (1736), Tông đức hầu Mạc Thiên Tứ lập
Chiêu Anh Các để mời các văn nhân tài hoa hội họp, xướng
họa thơ. Hòa thượng Hoàng Long cũng được mời vào Chiêu
Anh Các.
Năm Đinh Tỵ (1737), Hòa thượng Hoàng Long viên tịch ở
chùa trên núi, môn đệ lập tháp bảy từng để táng hài cốt,
tháp màu trắng, nên từ đó dân địa phương gọi núi đó là
núi Bạch Tháp.
Theo lời tương truyền: Vào lễ Phật Đản hay tiết Tam
Nguyên (Rằm tháng giêng, tháng 7, tháng 10), có con hạc
đen đến chầu và con vượn xanh đem trái cây đến cúng.
Trong sách “Gia Định Thành Thông Chí” phần chép về núi
sông ở trấn Hà Tiên, khi viết về núi Bạch Tháp, An toàn
hầu Trịnh Hoài Đức đã viết như sau:
“Ở phía Bắc Vân Sơn năm dặm (núi Bạch Tháp) có thế núi
quanh co, cây xanh tươi tốt, có thầy tăng ở Qui Nhơn
(Bình Định) là Đại Hòa thượng Hoàng Long đến lập chùa ở
đấy.
Đời vua Túc Tông Hiếu Minh Hoàng Đế năm thứ 13, là năm
Đinh Tỵ (1737), Hòa thượng mất, đồ đệ của ông xây tháp
bảy từng để trân tàng cốt xá-lợi. Mỗi khi đến thời tiết
Tam Nguyên [Tam Nguyên: Thượng Nguyên (Rằm tháng giêng),
Trung Nguyên (Rằm tháng 7), Hạ Nguyên (Rằm tháng 10).]
và Phật Đản [Phật Đản: Mùng 8 tháng 4 âm lịch.] thì có
con hạc đen đến chầu con vượn xanh dâng cúng quả, lưu
luyến bồi hồi như có ý muốn tham thiền thính pháp; đáng
gọi là nơi tịnh độ tiêu dao vậy !” [Gia Định Thành Thông
Chí, Bd. của Tu Trai Nguyễn Văn Tạo, quyển Thượng, trang
104-105.]
Thiền Sư HỒNG ÂN và TRÍ NĂNG hạ mãnh hổ
Hiện chưa biết Thiền sư Hồng Ân thuộc phái thiền nào,
trụ trì chùa nào, và hành trạng ra sao.
Hiệp biện Đại học sĩ Trịnh Hoài Đức có kể lại việc Thiền
sư Hồng Ân và Trí Năng hạ mãnh hổ ở chợ Tân Kiểng trong
sách Gia Định Thành Thông Chí như sau:
“Chợ Tân Kiểng (Tân Cảnh) ở phía Nam trấn Phiên An hơn 6
dặm, chợ phố trù mật, thường năm đến dịp Tết Nguyên Đán,
có cuộc chơi “đánh đu tiên” và “Vân xa” [Vân xa: bánh xe
lớn như quạt nước (xa nước) ở nông thôn, trên đó có 8
cái ghế và tám cô gái ngồi trên đó, đẩy cho bánh xe lớn
quay vòng tròn ,các cô gái mặc quần áo nhiều màu sắc
đẹp, bay phấp phới giữa không trung, xem rất đẹp.]
Ngày 25 tháng giêng năm Canh Dần (1770), vào thời chúa
Duệ Tông (Nguyễn Phước Thuần), sau khi mọi người đều an
nghỉ, có một con mãnh hổ vào nhà người dân ở phía Nam
chợ Tân Kiểng kêu gào dữ tợn, dân chúng kinh hãi, không
ai dám xúc phạm đến. Dân báo với đồn dinh Phiên Trấn để
phát binh vây bắt mãnh hổ. Sau đó, quân lính và dân
chúng phải triệt hạ nhiều nhà cửa làm nhiều lớp rào bao
vây, nhưng cọp rất dữ, không ai dám đến.
Qua đến ngày thứ ba, quân dân vẫn chưa có cách nào trừ
được cọp; tình cờ Thiền sư Hồng Ân và đồ đệ là Trí Năng
đến xin vào diệt cọp giùm cho dân chúng.
Thiền sư qua các lớp rào, vào đánh với cọp một chập lâu,
cọp bị đánh đau, chạy núp trong lùm tre. Sư Hồng Ân rượt
theo, cọp bị dồn vào đường cùng nên quay lại quyết đấu
với Sư. Thiền sư Hồng Ân lui bước, chẳng may chân bước
lọt vào mương nhỏ, té xuống, con cọp nhảy đến vồ xé, đệ
tử Trí Năng nhảy đến tiếp cứu, đánh trúng đầu cọp, cọp
chết ngay. Thiền sư Hồng Ân bị thương nặng và cũng chết
liền trong lúc ấy.
Dân chúng ở vùng chợ Tân Kiểng kính phục nghĩa khí của
Thiền sư Hồng Ân, nên đem chôn tại nơi trận chiến và xây
tháp thờ.” [Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức,
quyển Hạ, Bd. của Tu Trai Nguyễn Văn Tạo. Nhà Văn hóa
xuất bản Sài Gòn-1972]
Thiền Sư KHÁNH LONG
Thiền sư Khánh Long chưa rõ quê quán, tông phái và hành
trạng; chỉ biết Sư lập chùa Khánh Long ở gò Quít huyện
Phước Chánh, trấn Biên Hòa. Cảnh chùa Khánh Long được du
khách đặt bài thơ ca ngợi như sau:
Tiêu sơ cây núi bóng tà dương
Khe suối đi qua viếng đạo trường
Không khói đun trà hạc trong ổ
Mến thay thiền vị thật thanh lương.
(Tiêu sơ lãnh thọ quải tà dương
Bộ nhập khê nham phỏng đạo trường
Chử dánh vô yên sào hạc tĩnh
Khả liên thiền vị chính khê lương.)
Sau đó, Thiền sư Khánh Long đến núi Châu Thới, nơi gò
cao, thuộc thôn Long Tuy, huyện Long Thành, trấn Biên
Hòa lập chùa Hội Sơn.
Trong sách Gia Định Thành Thông Chí, An Toàn Hầu viết về
chùa Hội Sơn của Thiền sư Khánh Long như sau:
“Núi Châu Thới cách phía Nam trấn Biên Hòa 11 dặm rưỡi,
các từng núi cao xanh, cây cối lâu đời rậm tốt, làm tấm
bình phong triều về trấn thành, hình núi nhấp nhô cao
thấp khuất khúc, chạy qua hướng Đông, giáp hạ lưu sông
Đồng Nai (sông Phước Giang) rồi đến Gò Công thì dứt.
Ở
đuôi dãy núi Châu Thới, về phía Bắc, nứt ra một chi chạy
đến địa phận thôn Long Tuy, rồi nổi lên gò cao bằng
phẳng rộng rãi; ở trên núi có hang hổ và suối nước, dân
chúng ở dọc theo đó; trên núi có chùa Hội Sơn, là chỗ
Thiền sư Khánh Long sáng tạo để tu hành. Chùa Hội Sơn
trên núi nhìn xuống sông Đồng Nai, khách hành hương leo
lên núi du ngoạn, có cảm tưởng tiêu dao thoát ngoài
cõi tục lụy.”
(Theo sách Gia Định Thành Thông Chí Q. thượng tr. 14)
Ni Cô họ LÊ VỚI NÚI THỊ VÃI
Ni cô tên Lê Thị Nữ, không biết quê quán ở đâu, chỉ biết
lúc chưa xuất gia cô thuộc gia đình nhà giàu, trẻ đẹp,
hiếu thảo, lo phụng dưỡng cha mẹ, không chịu lấy chồng.
Sau khi cha mẹ mất mới chịu xuất giá, nhưng không bao
lâu thì chồng chết. Bà không chịu tái giá, nhưng bị nhà
quyền thế áp bức, vì vậy bà xuống tóc xuất gia tu hành.
Ni cô lập am trên núi gần Bà Rịa, giữ giới luật tinh
nghiêm, chí tâm tu hành, đạt thành chánh quả. Vì vậy,
người đời sau gọi núi đó là núi Thị Vãi hay núi Nữ Tăng.
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí viết: “Núi Nữ Tăng” ở đông
nam huyện Long Thành 12 dặm, tục gọi là núi Thị Vãi, đất
đá xen lộn, cây cối lên cao, từ tỉnh Gia Định trông đến
như hòn ngọc Thượng đế trưng bày, tượng trưng tốt đẹp.
Nhân dân ở đây nhờ nhiều món lợi (cây gỗ, dầu thông,
chim muông, than củi). Xưa có Ni cô là Lê Thị Nữ dựng am
ở tại núi ấy, nên gọi là “Núi Nữ Tăng”. [Đại Nam Nhất
Thống Chí Bd. N.V.Tạo tập Thượng, tr.14]
Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức có viết:
“Núi Nữ Tăng, tục gọi là núi Bà Vãi, ở địa phận Long
Thành, xưa có người con gái họ Lê, gia tư giàu có, nhưng
bị lỡ thời, sau khi cha mẹ mất rồi mới có chồng, không
được bao lâu chồng chết, bà thề không tái giá, lại bị kẻ
cường hào cậy mai mối thường đến quấy nhiễu. Bà bèn cạo
đầu lập am ở đỉnh núi, tự làm thầy Cả cùng bọn đồng tộc
giữ lòng tu trì, sau thành chánh quả. Người ta nhân đó
đặt tên núi.” [Đại Nam Nhất Thống Chí Bd. N.V.Tạo tập
Thượng, tr.16, 17.]
Ni Cô họ TỐNG ở HÀ TIÊN
Ni cô Tống Thị Lương là con một nhà giàu ở Hà Tiên, thùy
mị, siêng năng, giỏi về nữ công, giàu nữ hạnh.
Khi cô đến tuổi mười sáu, nhiều nhà quyền thế cậy người
mai mối đến cầu hôn, nhưng tất cả đều bị từ chối. Cha mẹ
trách cứ, cô cứ thưa: “Nhân duyên của con phải nhờ đức
Phật chỉ giáo.”
Tương truyền bỗng một hôm, có một vị sư lạ vào nhà cô
thuyết giảng Phật pháp, người nhà cho gì Sư cũng không
lấy mà Sư chỉ nằng nặc đòi xin chiếc áo lót đang phơi
ngoài sân, áo ấy lại là của cô. Cha mẹ cô thấy việc bất
nhã như thế nên la mắng, xua đuổi lớn tiếng. Cô chạy ra
khuyên can cha mẹ, vị sư chỉ mỉm một nụ cười rồi đi
thẳng. Sau khi nhà sư đi khỏi, lúc nào cô cũng thấy hình
như có đức Phật hiện ở bên mình, nên xin cha mẹ cho thế
phát đi tu. Cha mẹ khuyên nhủ hết lời mà cô vẫn khăng
khăng một mực, nên về sau cũng phải đành chiều theo ý
của cô, cho lập am Quan Âm ở bên trái núi Đại Kim trên
đảo Đại Kim cho cô tụng niệm tu hành.
Cô thêu một bức hình Bồ-tát Quan Thế Âm rất lớn, cứ mỗi
mũi kim lại niệm Phật một câu, suốt ba tháng mới xong.
Bức tranh treo lên trông rất sống động như vị Phật sống,
để thờ trong am. [Đại Nam Tiền Liệt Truyện Tiền Biên,
quyển 6]
Am Quan Âm của Ni cô Tống Thị Lương ở núi Đại Kim nằm
trên đảo Đại Kim. Đảo Đại Kim nằm ở phía Nam trấn, chu
vi 139 trượng 5 thước. Đảo này ngăn đón sóng cồn, làm
hạt ngọc biển của trấn. Nơi bờ có bắc cái cầu ván để
thông ra vào, phía sau có viện Quan Âm, phía tả có Điếu
đình, người du ngoạn thường khi trăng thanh gió mát đến
đây thả câu ngâm vịnh thong dong. Đây là cảnh “Kim dự
lan đào” (Đảo Kim ngăn sóng) trong mười cảnh đẹp của
trấn Hà Tiên.