TRẦN THÁI TÔNG ÔNG VUA THIỀN SƯ
(1218 - 1277)
Trần Thái Tông tên Trần Cảnh, con thứ của Trần Thừa,
sinh năm Mậu Dần niên hiệu Kiến Gia thứ tám (1218) triều
Lý. Gia thế ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay là xã
Tức Mặc huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định); ông cha làm nghề
đánh cá. Nhờ có công dẹp loạn, họ Trần dần dần có thế
lực từ đời Lý Cao Tông. Trần Cảnh mới có tám tuổi được
Lý Chiêu Hoàng nhận làm chồng và truyền ngôi cho, lấy
hiệu là Thái Tông.
Năm Thái Tông lên 20 tuổi, Lý Chiêu Hoàng 19 tuổi đang
là Hoàng hậu, bị Trần Thủ Độ ép Thái Tông giáng Chiêu
Hoàng làm Công chúa, lấy Thuận Thiên là vợ Trần Liễu (anh
ruột Thái Tông) làm Hoàng hậu. Lý do, vì Thủ Độ nôn nóng
Thái Tông có con để kế thừa, mà Chiêu Hoàng chậm con,
Thuận Thiên đang mang thai. Trần Liễu phẫn uất nổi loạn
tháng giêng năm Bính Thân (1236).
Do nhiều nỗi khổ và lòng ray rứt bất an, lúc 10 giờ đêm
ngày mồng ba tháng tư năm 1236, vua Thái Tông bỏ ngai
vàng, trốn lên núi Yên Tử đi tu. Vua đem theo một số tùy
tùng, nói đi để nghe dư luận dân gian, biết rõ sự thực
cho dễ bề trị nước. Sang sông, đoàn người đi về phía
đông. Bây giờ vua mới nói rõ ý định đi tu với các người
tùy tùng và bảo họ trở về. Mọi người đều ngạc nhiên và
khóc lóc. Vào khoảng sáu giờ sáng hôm sau vua đến bến đò
Đại Than ở núi Phả Lại. Trời sáng, sợ người nhận ra, vua
lấy vạt áo che mặt mà qua đò, rồi theo đường tắt lên núi.
Đến tối, vua vào nghỉ trong chùa Giác Hạnh, đợi sáng lại
đi. Khó khăn trèo núi hiểm, lội suối sâu, con ngựa đã
yếu không thể lên núi được nữa, vua phải bỏ ngựa vịn vào
các tảng đá mà đi. Khoảng hai giờ trưa mới đến chân núi
Yên Tử. Sáng hôm sau, vua lên thẳng đỉnh núi và vào tham
kiến Thiền sư Trúc Lâm (có lẽ Thiền sư Đạo Viên).
Thấy Trẫm, Quốc sư mừng rỡ. Người ung dung bảo Trẫm: Lão
tăng ở chốn sơn dã đã lâu, xương cứng mặt gầy, ăn rau
răm, nhai hạt dẻ, uống nước suối, vui cảnh núi rừng đã
quen, lòng nhẹ như đám mây nổi, cho nên mới theo gió mà
đến đây. Nay bệ hạ bỏ địa vị nhân chủ mà nghĩ đến cảnh
quê mùa rừng núi, hẳn là muốn tìm cầu gì ở đây cho nên
mới đến, phải không? Trẫm nghe lời thầy hỏi, hai hàng
nước mắt ứa ra, liền thưa với thầy rằng: Trẫm còn thơ ấu,
đã sớm mất mẹ cha, trơ vơ đứng trên sĩ dân, không có nơi
nào để nương tựa. Lại nghĩ rằng sự nghiệp đế vương đời
trước hưng phế bất thường, cho nên mới vào đây, chỉ muốn
cầu thành Phật, chứ chẳng muốn tìm gì khác. Thầy đáp:
Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu
tâm lắng lặng trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật. Nếu
bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay
tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài.” (Bài tựa
sách Thiền Tông Chỉ Nam)
Hôm sau, Trần Thủ Độ đem các quan lên núi Yên Tử đón vua
về kinh. Bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Thái Tông viết:
“Thấy Trẫm, Trần Công thống thiết nói: Tôi chịu lời ủy
thác của Tiên quân, phụng sự nhà vua trong việc làm chủ
thần dân. Nhân dân đang mong đợi bệ hạ như con đỏ trông
đợi cha mẹ. Huống chi ngày nay các vị cố lão trong triều
đều là họ hàng thân thích, sĩ thứ trong nước ai nấy đều
vui vẻ phục tùng, đến đứa trẻ lên bảy cũng biết nhà vua
là cha mẹ dân. Vả lại Thái Tổ vừa mới bỏ tôi mà đi, hòn
đất trên nấm mồ chưa ráo, lời dặn dò bên tai còn văng
vẳng, thế mà bệ hạ đã lánh vào chốn núi rừng ẩn cư để
cầu thỏa lấy ý chí riêng của mình. Tôi dám nói rằng bệ
hạ vì sự tự tu cho riêng mình mà làm vậy thì được, nhưng
còn quốc gia xã tắc thì sao? Nếu để lời khen suông cho
đời sau thì sao bằng lấy ngay thân mình làm người dẫn
đạo cho thiên hạ? Bệ hạ nếu không nghĩ lại, quần thần
chúng tôi cùng thiên hạ sẽ xin cùng chết cả trong ngày
hôm nay, quyết không trở về.
Trẫm nghe Thái sư và các quần thần bô lão đều không chịu
bỏ Trẫm, cho nên mới đem lời Thái sư mà bạch lại với
Quốc sư, Quốc sư cầm tay Trẫm mà nói: Phàm làm đấng nhân
quân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của
mình, và tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ
muốn đón bệ hạ về, bệ hạ không về sao được? Tuy nhiên sự
nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng phút nào quên.
Bởi vậy Trẫm với mọi người trong triều mới trở về kinh,
miễn cưỡng mà lên lại ngôi báu. Ròng rã trong mười năm
trời, mỗi khi có cơ hội việc nước nhàn rỗi, Trẫm lại tụ
họp các bậc kỳ đức để học hỏi đạo thiền. Các kinh điển
của các hệ thống giáo lý chính, không kinh nào là Trẫm
không nghiên cứu. Trẫm thường đọc kinh Kim Cương, một
hôm đọc đến câu ‘Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm’, buông
kinh xuống chiêm nghiệm, bỗng hoát nhiên tự ngộ...”
Thái Tông là ông vua chăm học, trong bài tựa kinh Kim
Cương Tam-muội ông viết:
“Trẫm lo việc chăn dân, mỗi lúc gian nan thường lăn lóc
trong công việc, quên cả sớm chiều. Công việc thì có
hàng vạn thứ mà thì giờ nhàn rỗi không có được bao lăm.
Siêng công việc, tiếc ngày giờ, Trẫm cố học hành thêm.
Chữ nghĩa thì chưa biết được bao lăm, cho nên ban đêm
đến giờ khuya vẫn còn phải thức để đọc sách; học sách
Nho rồi còn học kinh Phật.”
Thái Tông quả là ông vua cần mẫn hiếu học, không buông
mình theo dục lạc.
Chẳng những thế, Thái Tông lại là ông vua anh hùng. Năm
1257 giặc Mông Cổ xâm lăng đất nước, Thái Tông đích thân
tham gia chỉ huy nhiều trận, có mặt ở cả mọi nơi nguy
hiểm, khiến quân sĩ đều nức lòng chiến đấu. Kết quả quân
ta đã đánh tan quân xâm lược, giặc Mông Cổ tháo thân
chạy về Vân Nam vào đầu năm 1258. Đây là ông vua vừa đạo
đức vừa anh hùng, làm sáng rỡ những trang sử oai hùng
của dân tộc Việt Nam.
Sau cuộc chiến, đất nước thái bình, Trần Thái Tông
nhường ngôi cho con năm 1258 lên làm Thái thượng hoàng.
Từ đây Thái Tông vừa làm cố vấn cho con, vừa lo nghiên
cứu tu thiền. Đến lúc vua Trần Thánh Tông đủ sức đảm
đang việc nước, ông lui về lập am Thái Vi ở vùng rừng
núi Vĩ Lâm cố đô Hoa Lư để an dân lập ấp và tu hành.
Thái Tông cũng là nhà văn, đời Ngài viết khá nhiều tác
phẩm, hiện nay còn thấy trong tập Khóa Hư Lục. Thử trích
một vài đoạn để chứng thực điều này:
Trong bài Phổ Thuyết Sắc Thân có đoạn:
“Khi xưa tóc mượt má hồng, ngày nay tro xanh xương
trắng; khi mưa lệ tưới mây ảm đạm, lúc gió sầu lay
nguyệt mơ màng; canh tàn thì quỉ khóc thần sầu, năm muộn
thì trâu giày ngựa đạp. Đom đóm lập lòe trong cỏ biếc,
côn trùng rên rỉ ngọn dương trơ. Bia đá một nửa phủ rêu
xanh, tiều mục đạp ngang thành lối tắt...”
Hoặc đoạn khác trong bài Phổ Khuyến Phát Bồ-đề Tâm:
“Công danh cái thế, chẳng qua một giấc mộng dài, phú quí
kinh người, khó tránh ‘vô thường’ hai chữ. Tranh nhân
chấp ngã, rốt cuộc là không; khoe giỏi khoe hay rốt cùng
chẳng thực. Tứ đại rã rời thôi già trẻ, núi khe mòn mỏi
hết anh hùng. Tóc xanh chưa mấy mà mầu bạc đã pha, kẻ
mừng mới đi mà người điếu đã tới. Một bao máu mủ, bao
năm khổ luyến ân tình; bảy thước xương khô, mặc sức xan
tham tiền của. Thở ra không hẹn thở vào, ngày nay không
tin ngày kế; trôi nổi sông yêu giờ nào nghỉ, nấu nung
nhà cháy biết bao thôi ?”
Thái Tông là một Thiền sư có tầm cỡ. Đầu tiên Ngài đã
ngộ câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim
Cương. Sau Ngài còn tập họp các bậc kỳ đức để tham vấn
thiền. Những năm làm Thái thượng hoàng, Ngài có thì giờ
nghiên tầm thấu suốt, cho nên có người tham vấn, liền
đáp một cách tự tại. Nghe danh Ngài, vị tăng Đức Thành
người Tống đến hỏi:
-
Đức Thế Tôn chưa rời Đâu-suất đã giáng vương cung, chưa
ra khỏi thai mẹ độ hết chúng sanh là thế nào?
Ngài đáp:
-Ngàn sông có nước, ngàn sông nguyệt,
Muôn dặm không mây muôn dặm trời.
(Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt,
Vạn lý vô vân vạn lý thiên.)
Tăng khác hỏi:- Được trên phần của học nhân có tu chứng
chăng?
Ngài đáp:
- Nước chảy xuống non nào có ý,
Mây ra khỏi núi vốn không tâm.
(Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý,
Bạch vân xuất tụ bản vô tâm.)
Đến niên hiệu Bảo Phù thứ năm (1277), Ngài tịch, thọ 60
tuổi. Ngài viết những tác phẩm:
1) Thiền Tông Chỉ Nam
2) Kim Cương Tam-muội Kinh chú giải
3) Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi
4) Bình Đẳng Lễ Sám Văn
5) Khóa Hư Lục
6) Thi Tập
Phiên âm: (TRẦN THÁI TÔNG)
PHỔ THUYẾT SẮC THÂN
Chư nhân đẳng, thân vi khổ bản, chất thị nghiệp nhân.
Nhược tự dĩ thử vi chân, dã thị nhận tặc tác tử.
Nhĩ khả tử tế khan lai, chỉ giá sắc thân vị nhập bào
thai chi nhật, na xứ đắc hữu? Cái do niệm khởi duyên
hội, ngũ uẩn hợp thành, thể mạo vọng sinh, hình dung giả
xuất, vong chân vong bản, hiện ngụy hiện hư. Hoặc nữ
hoặc nam, hoặc nghiên hoặc xú, tận thị túng tâm phóng
khứ, đô vô thoái bộ hồi qui, khu trì sinh tử lộ đầu,
thất khước bản lai diện mục. Do thị cung mâu ngoại nhận,
thùy tri cố thủ nội khan. Lai thời sinh thị hóa sinh,
đáo xứ mộng trung thuyết mộng. Ba ba lục lục, dịch dịch
thông thông; dĩ huyễn vi chân, bội không xu sắc, khô lâu
thược tháp hoa trâm ngọc; xú bì đại đới xạ huân lan.
Tiển la ỷ khỏa nùng huyết nẵng, điều diên hoa ngự thỉ
niệu thung. Như tư ngoại sức, chung thị uế căn. Bất năng
giá lý tự tàm; phản hướng cá trung trước ái.
Chư nhân đẳng! Đại tợï cơ quan khối lỗi, toàn bằng ti
tuyến khiên trừu; lộng lai lộng khứ dữ sinh đồng, phóng
hậu thu thời chân tử dạng. Tự khởi vạn ban kế hiệu, đô
duyên lục tặc giao công; bất ưu lão bệnh tử lai, quản
tham tửu sắc tài khứ. Đồ cạnh dăng đầu oa giác, cam vi
lợi tỏa danh cương. Nhật gian phí tận hãnh cầu, dạ lý
phiên thành mộng tưởng. Tích đắc nghiệp cấu như tỉnh,
bất tri mấn phát tợ sương. Nhất triêu hoạn nhiễm trầm
kha, bách tuế chung qui đại mộng. Tâm can đổng thống,
phản nhược oan thù; cơ thể suy vi chân như ngạ quỉ.
Thượng dục kỳ thân đảo mệnh, bất tri sát vật thương
sinh. Tương kỳ nhất thế đẳng trường tùng, bất giác tứ
chi chân lậu ốc. Hồn phách tuy qui quỉ giới, thi hài do
ủy nhân gian. Phát mao trảo xỉ vị cập tiêu, thế thóa tân
dịch tiên bính xuất. Hủ lạn tắc lưu nùng lưu huyết; ô uế
tắc huân địa huân thiên. Bão hắc bất kham quan, ứ thanh
chân khả ố. Bất luận bần phú, đồng nhập tử vong. Hoặc
tàng ư thất tắc trùng xuất hủ sinh, hoặc khí ư lộ tắc
nha xan khuyển thực. Thế nhân giai yểm tị nhi quá, hiếu
tử phản lũy ly dĩ tàng; thập cốt thâu hài, yểm cách mai
tủy. Quan liệm phó nhất tinh dã hỏa, thổ đôi táng vạn lý
hoang sơn. Tích thời lục mấn chu nhan; kim nhật thanh
khôi bạch cốt. Lệ vũ sái thời vân thảm thảm, bi phong
động xứ nguyệt vi vi. Dạ lan tắc quỉ khốc thần sầu, tuế
cửu tắc ngưu tàn mã tiễn. Huỳnh hỏa chiếu khai thanh
thảo lý, cung thanh ngâm đoạn bạch dương sao. Bi minh
bán một tỏa thanh đài, tiều mục đạp xuyên thành khê
kính. Nhậm thị văn chương cái thế, túng nhiêu tài mạo
khuynh thành. Đáo đầu khởi hữu dị đồ, triệt để dã đồng
nhất trước. Nhãn bị sắc khiên qui kiếm thụ, nhĩ tùy
thanh dẫn thượng đao sơn. Tị đầu khứu trước xú yên tinh,
thiệt lý khiết lai thiết hoàn nhiệt. Thân khiếp dương
đồng câu quán khái; ý toan hỏa hoạch mỗi ngao tiên. Nhân
gian lịch tận bách xuân thu, ngục nội phương vi nhất trú
dạ.
Nhược thị tác gia cụ nhãn, trực tu tảo cấp hồi quan.
Phiên thân khiêu xuất tử sinh khòa; đàn chỉ liệt khai ân
ái võng. Túng nhĩ nam, túng nhĩ nữ tổng thị kham tu;
nhậm cừ trí nhậm cừ ngu tận giai hữu phận. Nhược vị đạt
Phật tâm tổ ý, thả tiên bằng trì giới niệm kinh; cập
Phật diệc phi, Tổ diệc phi tắc giới hà trì kinh hà niệm.
Cư huyễn sắc diệc danh chân sắc, xử phàm thân dã thị
pháp thân; phá lục tặc vi lục thần thông, du bát khổ tác
bát tự tại. Tuy ngôn nhậm ma nhi nhân nhân ký nhập giá
sắc thân lý, khứ dã thị nan nan.
Chư nhân đẳng ! Chỉ giá sắc thân, hựu tác thập ma sinh
thoát dã? Nhược vị năng thoát tu lai thính thủ.
Kệ viết:
Vô vị chân nhân xích nhục đoàn
Hồng hồng bạch bạch mạc tương man
Thùy tri vân quyện, trường không tịnh
Thúy lộ thiên biên, nhất dạng san.
Dịch: NÓI RỘNG SẮC THÂN
Hết thảy các người! Thân là gốc khổ, thể chất là nhân
nơi nghiệp, nếu tự cho nó là thật, cũng là nhận giặc làm
con.
Các ông nên chín chắn xem, chỉ sắc thân này khi chưa vào
bào thai thì nơi nào được có. Bởi do niệm khởi duyên
hội, năm uẩn hợp thành, thể mạo vọng sanh, hình dung giả
có. Quên thật quên gốc, hiện giả hiện dối, hoặc nữ hoặc
nam, hoặc đẹp hoặc xấu. Trọn là buông tâm chạy đi, toàn
không một bước trở về, chạy rong trên đường sinh tử, mất
tuốt “bản lai diện mục”. Do đó, giương mắt nhìn bên
ngoài, ai biết xoay đầu ngó lại bên trong. Khi lại, sanh
là hóa sanh. Nơi đến, trong mộng nói mộng, lăng xăng lộn
xộn, vội vội vàng vàng, lấy giả làm chân, trái không đến
sắc. Đầu sọ khô cài hoa giắt ngọc, túi da hôi ướp xạ
xông hương, cắt lụa là che đãy máu tanh, giồi son phấn
át thùng phân thúi. Trang sức như thế trọn là gốc nhớp.
Không thể nơi đây tự thẹn, lại hướng trong ấy mến yêu.
Hết thảy các người! Giống hệt con rối, đều nhờ sợi tơ
kéo rút, đùa đến đùa đi cùng sanh một thứ, sau khi buông
đi thật là dáng chết. Tự khởi muôn việc tính toán, đều
do lục tặc công phá. Chẳng lo già bệnh chết đến, chỉ
thích sắc tài rượu thịt. Luống đua đầu lằng sừng ốc (Đầu
lằng sừng ốc: cái lợi nhỏ nhoi.)cam chịu lợi ràng danh
buộc. Trọn ngày dồn sức mong cầu, tối lại trở thành mộng
tưởng. Chất chứa nghiệp dơ như giếng, chẳng biết tóc bạc
như sương. Một hôm bệnh nặng trầm kha, trăm năm trọn về
mộng lớn. Tim gan đau đớn dường thể oán thù, thân thể ốm
gầy giống như quỉ đói. Còn muốn cầu đảo sống dai, nào
biết sát sinh hại mạng. Chỉ mong biết đời sống như tùng
bá, đâu ngờ thân thể ví tựa nhà xiêu. Hồn phách tuy về
cõi quỉ, thi hài vẫn còn ở nhân gian, tóc lông răng móng
chưa kịp tiêu, đàm dãi máu me đều chảy trước. Rữa nát
thì máu mủ chảy trào, hôi hám ắt xông trời xông đất, đen
nám chẳng dám nhìn, xanh bầm thật đáng tởm. Chẳng luận
giàu nghèo đồng vào cõi chết, hoặc để trong nhà thì giòi
đục tửa sinh, hoặc ném ra đường quạ ăn chó xé. Người đời
đều bịt mũi đi qua, con hiếu thì lấy chiếu mền quấn
giấu. Nhặt thu hài cốt, chôn cất thịt xương. Quan quách
phó cho đóm lửa ma trơi nơi hoang dã, mả mồ giao cho
muôn dặm núi sông. Khi xưa tóc đen má ửng, ngày nay
xương trắng tro đen. Khi mưa lệ rơi thì mây sầu thê
thảm, lúc gió buồn thổi thì trăng sáng hắt hiu. Đêm vắng
thì quỉ khóc thần sầu, năm dài thì ngựa giày trâu đạp.
Lửa đom đóm lập lòe trong đám cỏ xanh, tiếng dế ngâm nỉ
non cạnh hàng dương liễu. Bia ghi nửa chìm, rêu xanh
phủ, tiều phu dậm mãi thành lối mòn. Dầu cho văn chương
cái thế, giả sử tài sắc nghiêng thành, chung cuộc đâu có
đường khác, cuối cùng cũng chỉ một lối đi. Mắt bị sắc
dẫn trèo lên cây kiếm; tai theo tiếng lôi tiến lên núi
đao; lỗ mũi ngửi toàn mùi hôi hám; trong lưỡi ăn sắt
nóng nuốt hoài; thân khiếp sợ nước đồng sôi nóng dội; ý
chua cay vạc dầu sôi nung nấu. Nhân gian trọn một trăm
năm, trong địa ngục mới là sáng tối.
Nếu người tác gia đủ mắt, cần phải sớm gấp hồi quang,
chuyển thân nhảy khỏi vòng sanh tử, khoảng khảy tay cắt
đứt lưới ái ân. Dù là nam hay nữ thảy đều tu được; dẫu
rằng trí hay ngu trọn đều có phần. Nếu chưa đạt được
Phật tâm, Tổ ý, hãy trước nương trì giới tụng kinh. Đến
lúc Phật cũng chẳng phải, Tổ cũng chẳng phải, thì giới
gì trì, kinh nào tụng. Nơi sắc huyễn cũng là chân sắc, ở
thân phàm cũng là thân Phật. Phá sáu thức làm sáu thần
thông, dạo tám khổ (Tám khổ là: sanh ,lão ,bệnh, tử, cầu
chẳng được, thương yêu chia lìa, oán thù chung hội, thân
năm ấm hưng thịnh.)thành tám tự tại (Tám tự tại: Một
thân hiện nhiều thân như số vi trần. - Thân nhiều như vi
trần ở khắp các cõi Phật. - Thân lớn của Phật đến các
thế giới. - Phật hiện vô số thân. - sáu căn hỗ dụng. -
Phật đạt tất cả pháp vẫn như không được. - Phật thuyết
pháp tự tại.). Tuy nói thế ấy, mà mỗi người vào trong
sắc thân rồi, bỏ đó thật khó thay !
Hết thảy các người! Chỉ sắc thân này lại làm sao giải
thoát ? Nếu chưa giải thoát, cần phải nghe đây:
Vô vị chân nhân thịt đỏ au,
Hồng hồng bạch bạch chớ lầm nhau.
Ai hay mây cuộn, không toàn tịnh,
Sương biếc bên trời, một núi xanh.
Phiên âm: PHỔ KHUYẾN PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
Phù thế chi chí quí giả, duy kim ngọc nhĩ. Nhiên sát kỳ
sở trọng, thẩm kỳ sở tích phản bất cập ư thân mệnh giả
dã. Giả như hữu phú quí gia nhân bái vi đại tướng, dụng
hoàng kim vi giáp dĩ bị kỳ thân. Chí lâm chiến chi nhật,
binh nhận ký nhiếp chi thời, hoặc khí giáp duệ binh nhi
tẩu, ký đắc toàn ư nhất thân nhi dĩ, nhi hoàng kim chi
giáp khởi hạ cố tai! Nãi tri hoàng kim chi trọng bất túc
dĩ tỷ thân mệnh giả, thử chi vị dã.
Kim giả bất nhiên phản quí kỳ vật nhi tiện kỳ thân, bất
tri kỳ thân, hữu nan phùng giả tam. Hà giả vi tam ?
Nhất giả, lục đạo chi trung duy nhân vi quí. Chí nhãn
quang lạc địa chi thời, hôn hôn mộng mộng, bất tri sở
xu. Hoặc nhập địa ngục, a-tu-la, ngạ quỉ, súc sinh chi
đạo, bất đắc vi nhân, thị nhất nan phùng dã.
Nhị giả, ký đắc vi nhân, hoặc sinh man di chi xứ, dục
tắc đồng xuyên, ngọa tắc đồng sàng, tôn ti hỗn xử, nam
nữ tạp cư; bất bị nhân phong, bất điều thánh hóa. Thử
nhị nan phùng dã.
Tam giả, ký đắc sinh ư trung quốc, lục căn bất cụ, tứ
thể bất toàn, manh lung ám á, sậm sước luy loan, khẩu tị
tinh chiên, thân hình xú lạn; sư bất dữ cận, chúng mạc
nan thân. Tuy cư hoa hạ chi trung, nhược xử cùng hoang
chi ngoại. Thử tam nan phùng dã.
Kim ký vi nhân đắc sinh ư trung quốc, hựu lục căn toàn
cụ, khởi bất vi quí hồ ? Phàm thế chi nhân, mỗi khu khu
ư danh lợi chi đồ, thương kỳ thần lao kỳ hình; khí kỳ
thân mệnh chi chí trọng, dịch ư tài hóa chi chí khinh;
dữ thực bỉnh vong thê, hàm phạn vong giáp, hữu hà dị tai
! Tuy ngôn thân mệnh chi chí trọng, do vị túc trọng ư
chí đạo giả dã. Cố Khổng Tử viết: Triêu văn đạo, tịch tử
khả hỷ. Lão Tử viết: Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngô
hữu thân. Thế Tôn cầu đạo xả thân cứu hổ, khởi phi tam
thánh nhân khinh thân nhi trọng đạo giả tai ! Ô hô !
Thân mệnh chi chí trọng nhi thượng ưng xả cầu vô thượng
bồ-đề, huống kim ngọc tài bảo chi chí khinh hựu hà tích
tai! Hu, thập thất chi ấp thượng hữu trung tín, cử thế
chi nhân khởi vô thông minh kiệt tuệ giả hồ ? Thảng văn
tư ngôn, cố đương mẫn học, vật tự trì nghi. Kinh vân :
nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục, thâm khả thống
tai ! Cố Khổng Tử hữu ngôn : Nhân nhi vô vi, ngô mạt như
chi, hà dã dĩ hĩ !
Tường phù bách niên quang ảnh toàn tại sát-na; tứ đại
huyễn thân, khởi năng trường cửu. Mỗi nhật trần lao mịch
mịch, chung triêu nghiệp thức mang mang. Bất tri nhất
tính chi viên minh; đồ sính lục căn chi tham dục. Công
danh cái thế, vô phi đại mộng nhất trường, phú quí kinh
nhân, nan miễn vô thường nhị tự. Tranh nhân tranh ngã,
đáo để thành không; khoa hội khoa năng, tất cánh phi
thật.
Phong hỏa tán thời vô lão thiếu,
Khê sơn ma tận kỷ anh hùng.
Lục mấn vị kỷ nhi bạch phát tảo xâm; hạ giả tài lâm nhi
điếu giả tùy chí. Nhất bao nùng huyết trường niên khổ
luyến ân tình; thất xích độc lâu tứ ý xan tham tài bảo.
Xuất tức nan kỳ nhập tức, kim triêu bất bảo lai triêu.
Ái hà xuất một kỷ thời hưu
Hỏa trạch ưu tiên hà nhật liễu.
Bất nguyện xuất ly nghiệp võng, chỉ nhân vị hữu công
phu. Diêm-la vương hốt địa lai truy, Thôi tướng công
khởi dung triển hạn. Hồi thủ gia thân đô bất kiến, đáo
đầu nghiệp báo tự thừa đương. Quỷ vương ngục tốt nhất
nhậm khi lăng; kiếm thụ đao sơn cánh vô thôi để. Hoặc
nhiếp Ốc tiêu sơn hạ, hoặc tại Thiết vi sơn gian. Thụ
hoạch thang tắc vạn tử thiên sinh; tao thóa hạp tắc nhất
đao lưỡng đoạn. Cơ thôn nhiệt thiết, khát ẩm dung đồng.
Thập nhị thời cam thụ khổ tân; ngũ bách kiếp bất kiến
đầu ảnh. Thụ túc tội nghiệp, phục nhập luân hồi. Đốn
thất cựu thời nhân thân, hoán khước giá hồi bì đại. Phi
mao đới giác, hàm thiết phụ yên; dĩ nhục cung nhân, dụng
mệnh hoàn trái. Sinh bị đao châm chi khổ, hoạt tao thang
hỏa chi tai; hỗ tích oan khiên, đệ tương thực hám. Na
thời truy hối, học đạo vô nhân. Hà như trực hạ thừa
đương, mạc đãi kim sinh sa quá. Thích Ca Văn Phật, xả
hoàng cung nhi trực vãng Tuyết Sơn, cư sĩ Bàng Công,
tương gia tài nhi tất trầm thương hải. Chân Vũ bất thống
vương vị duy vụ tu hành; Lã Công ký tác thần tiên
thượng cần tham vấn. Tô học sĩ thường thân Phật Ấn, Hàn
Văn Công chung lễ Đại Điên. Bùi công đoạt hốt ư Thạch
Sương, Phòng Tướng vấn pháp ư Quốc Nhất. Diệu Thiện bất
chiêu phò mã, thành Phật vô nghi; Lục Tổ tương ngộ khách
nhân, thính kinh đốn ngộ. Thiền đạo nhược vô huống vị,
thánh hiền hà khẳng qui y ? Hoa Lâm cảm nhị hổ tùy thân,
Đầu Tử hữu tam nha báo hiểu. Lý trưởng giả giải kinh nhi
thiên trù tống thực, Tu-bồ-đề đả tọa nhi Đế Thích tán
hoa. Đạt-ma chích lý tây qui, Phổ Hóa giao linh đằng
khứ. La Hán lai tham ư Ngưỡng Sơn Hòa thượng. Nhạc đế
thụ giới ư Tư Đại thiền sư. Kính Sơn chí kim do thị Long
vương đả cúng, Tuyết Phong vãng tích năng sử mộc nhân
khai sơn. Thử giai dĩ nghiệm chi nhân do, thiết mạc tự
khinh nhi thoái khuất. Dã hồ thượng thính Bách Trượng
pháp, loa sư do hộ Kim Cương kinh. Thập thiên du ngư văn
Phật hiệu nhi hóa vi thiên tử, ngũ bách biển bức thính
pháp âm nhi tổng tác thánh hiền. Mãng văn sám dĩ sinh
thiên, long thính kinh nhi ngộ đạo. Bỉ vật thượng năng
lĩnh ngộ, huống nhân hà bất hồi tâm. Hoặc hữu mai đầu
khiết phạn nhi không quá nhất sinh; hoặc hữu thác lộ tu
hành nhi bất tỉnh giá ý. Khởi thức Bồ Đề giác tính cá cá
viên thành; tranh tri bát nhã thiện căn nhân nhân cụ
túc. Mạc vấn đại ẩn tiểu ẩn, hưu biệt tại gia xuất gia.
Bất câu tăng tục nhi chỉ yếu biện tâm, bản vô nam nữ hà
tu trước tướng. Vị minh nhân vọng phân tam giáo, liễu
đắc để đồng ngộ nhất tâm: Nhược năng phản chiếu hồi
quang, giai đắc kiến tánh thành Phật. Hựu huống nhân
thân dị thất, Phật pháp nan phùng. Dục siêu lục đạo chi
chu lưu, duy hữu nhất thừa chi tiệp kính. Tu cầu chính
kiến, mạc tín tà sư. Ngộ liễu phương thị nhập đầu, hành
đắc thủy năng thoát tục. Bộ bộ đạp trước thực địa, đầu
đầu đỉnh đới hư không. Dụng thời tắc vạn cảnh toàn
chương, phóng hạ tắc nhất trần bất lập. Siêu sinh tử bất
tương quan chi địa, liễu quỉ thần thư bất phá chi cơ.
Thị phàm thị thánh nhi đồng nhập lộ đầu, hoặc oán hoặc
thân nhi cộng nhất tị khổng. Như tư thực ngộ, thượng trệ
bán đồ, hưu thuyết hướng thượng tam huyền, yếu liễu mạt
hậu nhất trước. Thả đạo tức kim hoán nả cá tố mạt hậu
nhất trước ?
Thanh sơn đê xứ kiến thiên khoát
Hồng ngẫu khai thời văn thủy hương.
Dịch: RỘNG KHUYẾN PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
Ở
đời cái quí tột chỉ là vàng ngọc mà thôi. Nhưng xét kỹ
chỗ quí tiếc ấy, chẳng bằng thân mạng. Ví như có người
giàu sang được phong làm đại tướng, dùng vàng ròng làm
giáp để che đỡ cho thân. Đến khi lâm chiến binh đao bị
thua, hoặc cởi giáp ném gươm mà chạy, mong được thân
mạng an toàn mà thôi, giáp vàng ròng đâu rảnh nghĩ tiếc.
Mới biết, cái quí vàng ròng chẳng bằng cái quí thân
mạng, đây là thực vậy.
Ngày nay thì không thế, trái lại quí vật kia mà khinh
thân này. Chẳng biết thân này khó được có ba. Thế nào là
ba ?
1- Trong lục đạo chỉ người là quí, đến khi nhắm mắt đi
rồi, mờ mờ mịt mịt chẳng biết chỗ đến. Hoặc vào đường
địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a-tu-la chẳng được làm
người. Đây là cái khó được thứ nhất.
2- Đã được làm người, lại sanh nơi mọi rợ, tắm thì đồng
sông, ngủ thì chung giường, trật tự tôn ty không có, nam
nữ lẫn lộn, chẳng được phong tục nhân thuần, chẳng nghe
chư thánh giáo hóa. Đây là cái khó được thứ hai.
3- Đã được sanh nơi phồn thịnh mà sáu căn không đủ, thân
thể tật nguyền, mù, điếc, câm, ngọng, què, thọt, còng,
gù; miệng mũi hôi tanh, thân hình nhơ nhớp. Thầy chẳng
được gần, chúng chẳng được thân. Tuy ở nơi phồn thịnh
dường thể ở ngoài quê vắng. Đây là cái khó được thứ ba.
Nay đã làm người, được sanh nơi phồn thịnh lại đầy đủ
sáu căn, đâu chẳng là quí sao? Người đời luôn luôn đuổi
theo con đường danh lợi, luống nhọc xác tổn thần, đem
thân mạng rất quí báu này làm tôi tớ cho tiền của đáng
khinh. Sánh với người ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên môi
nào có khác gì. Tuy thân mạng thực là quí trọng, vẫn
chưa quí trọng bằng đạo tối cao. Cho nên Khổng Tử nói:
“Sớm nghe đạo chiều chết cũng vui.” Lão Tử nói: “Tôi sở
dĩ có hoạn lớn, vì tôi có thân.” Thế Tôn thuở xưa cầu
đạo xả thân cứu cọp đói. Đâu chẳng phải ba bậc thánh
nhân đều khinh thân mà trọng Đạo đó sao? Than ôi ! Thân
mạng thật là quí trọng còn phải xả để cầu Vô thượng
Bồ-đề, huống là vàng ngọc, tiền của đáng khinh mà lại
tiếc sao? Ôi trong ấp mười nhà vẫn có người trung tín,
huống là cả thế gian há không có người thông minh sáng
suốt hay sao ? Đã nghe lời này, cần phải gắng học, chớ
nên nghi ngờ chậm trễ. Kinh nói: “Một phen mất thân
người, muôn kiếp chẳng được lại”, thật là thống thiết.
Cho nên Khổng Tử nói : “Người không chịu làm, tôi
chẳng làm gì, cam đành thôi vậy.”
Rõ ràng thời gian trăm năm, toàn ở trong sát-na, thân
huyễn tứ đại đâu thể lâu dài. Mỗi ngày chìm đắm trong
trần lao, mỗi lúc nghiệp thức càng mênh mông vô tận.
Chẳng biết một tánh viên minh, luống theo sáu căn tham
dục. Công danh cái thế cũng chỉ là một trường đại mộng,
phú quí kinh nhân khó khỏi vô thường hai chữ. Tranh nhân
tranh ngã rốt cuộc thành không, khoe giỏi khoe hay cứu
cánh chẳng thật.
Gió lửa khi tan không già trẻ
Núi sông bại hoại mấy anh hùng.
Đầu xanh chưa mấy lúc tóc bạc đã sớm điểm sương; ngày
vui vừa đến thì ngày điếu cũng đi theo. Một bao máu mủ
nhiều năm khổ luyến ân tình, bảy thước hình hài buông
lòng tham mê tài bảo. Thở ra khó mong được hít vào, ngày
nay không bảo đảm ngày mai.
Sông yêu chìm nổi lúc nào thôi,
Nhà lửa đốt thiêu bao giờ tắt ?
Chẳng nguyện vượt ra lưới nghiệp, chỉ vì chưa có công
phu. Vua Diêm-la chợt truy tìm, Thôi tướng công há cho
triển hạn. Ngoái đầu nhìn người thân chẳng thấy, đến đây
rồi nghiệp báo tự mang. Quỉ vương ngục tốt mặc sức khảo
tra, cây kiếm núi đao khôn chống đỡ. Hoặc nhốt dưới ngọn
núi lửa, hoặc giam trong núi Thiết Vi. Vào vạc dầu sôi
muôn kiếp ngàn đời, bị chặt chém một đao thành hai khúc.
Đói nuốt hoàn sắt nóng, khát uống nước đồng sôi. Suốt
ngày luôn chịu khổ đau, năm trăm kiếp chẳng thấy hình
bóng. Trả xong tội nghiệp, trở vào luân hồi. Bỗng mất
thân người khi trước, trở lại mang lấy đãy da. Đội lông
mang sừng, hàm sắt dây yên, lấy thịt nuôi người, dùng
mạng trả nợ. Sanh bị khổ dao bầm chày nện, sống bị nạn
nước sôi lửa bỏng. Hằng chứa oán thù, thay nhau ăn nuốt.
Khi đó mới hối hận học đạo không nhân.
Chi bằng ngay đây tu tập, chớ để đời này trôi qua. Đức
Phật Thích-ca trước bỏ hoàng cung đi thẳng vào núi Tuyết.
Cư sĩ Bàng Long Uẩn đem gia tài đổ xuống biển sâu. Chân
Vũ chẳng thiết ngôi vua chỉ cầu tu hành. Lữ Công đã làm
thần tiên vẫn còn tham vấn. Tô Đông Pha thường gần Phật
Ấn, Hàn Văn Công lại lễ Đại Điên, Bùi Công bị đoạt hốt
nơi Thạch Sương; Phòng Tướng hỏi pháp ở Quốc Nhất. Diệu
Thiện không nhận phò mã, thành Phật chẳng ngờ. Lục Tổ
mới gặp khách nghe kinh liền tỉnh ngộ. Đạo Thiền nếu
không thú vị, hiền thánh sao chịu qui y. Hoa Lâm cảm hóa
hai cọp theo luôn. Đầu Tử có ba con chim báo sáng. Lý
trưởng giả giải kinh mà Thiên trù dâng cơm. Tu-bồ-đề
ngồi yên mà Đế Thích tán hoa. Đạt-ma một chiếc dép về
Tây. Phổ Hóa rung chuông bay đi. La-hán đến tham vấn với
Hòa thượng Ngưỡng Sơn. Nhạc Đế qui y với Thiền sư Tư Đại.
Cảnh Sơn đến nay vẫn được Long vương thỉnh cúng. Tuyết
Phong ngày xưa hay sai người gỗ phá non. Đây là những
nguyên do để nghiệm biết, chớ tự khinh mà lui sụt.
Chồn hoang còn nghe Bá Trượng nói pháp. Loài ốc sò vẫn
biết hộ kinh Kim Cang. Mười ngàn con cá nghe danh hiệu
Phật được hóa làm con trời. Năm trăm chim quạ nghe tiếng
pháp thảy được làm hiền thánh. Mãng xà nghe sám hối được
sanh thiên. Rồng nghe kinh mà ngộ đạo. Chúng là loài vật
còn hay lãnh ngộ, huống là người sao chẳng hồi tâm.
Hoặc có người vùi đầu trong ăn uống, qua mất một đời.
Hoặc có người trên đường tu hành lầm lẫn, mà không thức
tỉnh. Đâu biết, tánh giác Bồ-đề mỗi mỗi viên thành, nào
hay căn lành Bát-nhã người người đầy đủ. Chớ luận đại ẩn
tiểu ẩn, thôi phân tại gia xuất gia. Chẳng cuộc người
tăng kẻ tục, chỉ cốt nhận được bản tâm. Vốn không có nam
nữ, đâu cần chấp tướng. Người chưa rõ dối chia tam giáo,
liễu được rồi đồng ngộ nhất tâm. Nếu hay phản chiếu hồi
quang, đều được kiến tánh thành Phật.
Huống là thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Nếu
muốn vượt khỏi dòng quanh lục đạo, chỉ có con đường tắt
nhất thừa. Cần tìm chánh kiến, chớ tin tà sư. Ngộ rồi
mới là vào cửa, hành được mới hay thoát tục. Bước bước
đạp đến đất thật, đầu đầu đều đội hư không. Khi dùng thì
muôn cảnh toàn bày, buông đi thì mảy bụi chẳng lập. Vượt
đến chỗ không còn tương quan sanh tử, cơ liễu ngộ quỉ
thần nhìn chẳng ra. Là phàm là thánh đồng vào đường này,
hoặc oán hoặc thân cùng chung một lỗ mũi. Thật ngộ như
thế, còn kẹt giữa đường. Thôi nói tam huyền hướng thượng,
cốt rõ một câu rốt sau. Hãy nói hiện nay cái gì là “một
câu rốt sau”?
Non xanh chốn ấy thấy trời rộng,
Sen
đỏ nở rồi nghe mùi thơm.