Uống nước nhớ
nguồn, bàn về ân đức
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
tu :
Hôm
nay chúng ta có được nhân duyên thù thắng như
vầy, mọi người tụ họp tại đạo tràng Tịnh Tông
Học Hội Úc châu, tuy đạo tràng chẳng lớn lắm,
nhưng rất trang nghiêm, đây là nơi đầu tiên Tịnh
Tông được truyền đến Úc châu. Chúng ta uống nước
phải nhớ nguồn, trước tiên phải hiểu rơ sự hoằng
truyền Tịnh Tông trong những năm gần đây đă trải
qua một giai đoạn rất gian
khổ.
A. Niệm Phật, Pháp môn hạng nhất của
nền giáo dục Phật Đà. Văn Thù, Phổ Hiền, Thiện
Tài đều tu pháp này.
Lúc tôi mới bắt đầu học Phật, người giới thiệu
Phật pháp cho tôi là Phương Đông Mỹ tiên sinh,
đây là chuyện vào năm Dân Quốc bốn mươi hai
(1953). Sau đó chẳng bao lâu tôi quen Chương Gia
đại sư, ngài rất từ bi, giảng dạy hết ḷng, cơ
sở Phật học của tôi là do ngài xây dựng cho. Ba
năm sau Chương Gia đại sư viên tịch. Một năm sau
tôi gặp lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam, tôi theo học với
thầy Lư được mười năm. Đến năm Dân Quốc năm mươi
sáu (1967) mới rời khỏi Đài Trung, cho nên trên
thực tế thời gian tôi tu học Đại thừa Phật pháp
là mười ba
năm.
Sau
khi đến Đài Trung, thầy Lư giới thiệu pháp môn
Tịnh Độ cho tôi, lúc đó tôi c̣n trẻ, cũng như
phần đông những người trẻ tuổi thường ham thích
những ǵ xa vời viễn vông, cứ nghĩ pháp môn niệm
Phật là pháp môn dành cho ông già bà cả, trong
Phật pháp c̣n rất nhiều kinh sách, có nhiều pháp
môn rất hấp dẫn, những người trẻ tuổi như tôi
rất hâm mộ, ưa thích, đặc biệt là Hoa Nghiêm,
Pháp Hoa. Nhưng thầy Lư dùng trí huệ, phương
tiện thiện xảo hướng dẫn chúng tôi. Tuy chẳng
tiếp nhận hoàn toàn nhưng thời gian được thầy
hun đúc, rèn luyện lâu dài nên từ từ chúng tôi
cũng nhận thức được pháp môn này, nảy sanh ḷng
tin, mới biết pháp môn này rất thù thắng. Thực
sự lúc tôi chân chánh hiểu rơ sự thù thắng của
pháp môn này là sau khi tôi giảng kinh Hoa
Nghiêm được mười bảy năm. Từ năm Dân Quốc sáu
mươi (1971) tôi bắt đầu giảng kinh Hoa Nghiêm,
trong mười bảy năm này giảng được phân nửa Bát
Thập Hoa Nghiêm, Tứ Thập Hoa Nghiêm cũng giảng
được phân nửa, đều chưa giảng hết. Sau này
thường thường ra nước ngoài hoằng pháp, thời
gian có lúc gián đoạn, có lúc liên tục nhưng vẫn
chưa giảng hết bộ kinh này. Từ trong kinh Hoa
Nghiêm chúng ta khẳng định pháp môn Niệm Phật là
pháp môn hạng
nhất.
Năm
đó tôi đột nhiên nghĩ đến hai vị Bồ Tát trong
hội kinh Hoa Nghiêm, Văn Thù và Phổ Hiền. Bồ Tát
Văn Thù đă từng
là thầy của bảy vị Phật, nghĩa là trong số học
tṛ của Ngài có bảy người đă thành Phật. Bản
thân của Ngài có thể nói là cổ Phật tái lai ứng
hóa, Ngài đă thành Phật từ một kiếp xa xôi về
trước, bây giờ thị hiện ở thế giới Sa Bà, làm
người trợ giúp cho Phật Tỳ Lô Giá Na, thị hiện
là Đẳng Giác Bồ Tát. Tôi đặc biệt để ư hai vị Bồ
Tát này, họ tu pháp môn ǵ? Kết quả là từ kinh
Hoa Nghiêm thấy được cả hai vị đều niệm Phật A
Di Đà cầu sanh Tịnh Độ, việc này làm cho tôi rất
kinh ngạc!
Sau đó quan sát kỹ Thiện Tài đồng tử, người thị
hiện làm học tṛ đắc ư, đệ tử của Bồ Tát Văn
Thù, Ngài học pháp môn ǵ? Th́ ra Ngài cũng niệm
A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ nữa. Cho nên năm
mươi ba lần tham học [của Thiện Tài đồng tử] dạy
cho chúng ta biết: đối với hết thảy pháp thế
gian và xuất thế gian một người niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ phải nên tu học như thế nào. Điều
này dạy cho chúng ta một chuyện rất quan trọng,
nói theo ngôn ngữ hiện nay tức là một người đệ
tử chân chánh của Di Đà niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ phải sanh hoạt như thế nào? Nên làm việc như
thế nào? Nên tiếp xúc với mọi người như thế nào?
Đây đều là vấn đề vô cùng thiết thực đối với
chúng ta, hơn nữa đều là những vấn đề chẳng thể
không biết, câu trả lời nằm trọn trong kinh Hoa
Nghiêm. Điều này cũng nói rơ kinh Hoa Nghiêm là
một bộ kinh mà người học Phật chẳng thể không
đọc.
Nhưng
kinh Hoa Nghiêm quá dài, nếu dùng kinh nghiệm
giảng kinh của tôi mà xét, giảng từ đầu đến cuối
cũng mất khoảng ba ngàn giờ đồng hồ. Trong xă
hội hiện nay có ai nhẫn nại như vậy, ai chịu
dùng ba ngàn giờ đồng hồ để học một bộ kinh? Và
cũng có thể nói người đời nay nghiệp chướng nặng
hơn người thời xưa, người xưa có khả năng, có cơ
duyên học bộ kinh này; hiện nay bước vào xă hội
công nghiệp, thế kỷ sau này (thế kỷ hai mươi
mốt) nhất định sẽ c̣n khẩn trương hơn bây giờ;
bất kể là áp lực đời sống, áp lực công việc nhất
định sẽ nhiều hơn bây giờ, nói một cách khác
thời gian ngày càng ít. Cho nên không thể không
t́m cầu bộ kinh khác. Rất may mắn chúng ta t́m
được một bộ kinh cũng thù thắng, viên măn giống
kinh Hoa Nghiêm nhưng lại ngắn hơn nhiều, hết
sức thích hợp cho người đời nay tu học, đó tức
là kinh Vô Lượng
Thọ.
Các
đại đức thời xưa nói: 'Kinh Vô Lượng Thọ là
trung bổn Hoa Nghiêm, kinh A Di Đà là tiểu bổn
Hoa Nghiêm'. Kinh văn có dài, ngắn khác nhau,
Bát Thập Hoa Nghiêm rất dài, kinh A Di Đà rất
ngắn, nhưng nghĩa lư và cảnh giới trong đó chẳng
có sai khác; đây là lời của cư sĩ Bành Tế Thanh
nói vào những năm đầu triều vua Càn Long. Bành
Tế Thanh có một tác phẩm rất xuất sắc là ‘Hoa
Nghiêm Niệm Phật Tam Muội Luận’, quyển này tuy
không dài nhưng nội dung vô cùng phong phú. Gần
đây lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đă giảng quyển sách
này một lần ở Bắc Kinh, có lưu lại băng thâu âm,
từ băng ghi âm chép ra thành giảng kư, hiện nay
đă được xuất bản, rất dễ kiếm, quyển này nói rơ
kinh Hoa Nghiêm rất quan trọng trong pháp môn
niệm Phật Chúng ta hăy xem lời răn dạy, lời nhắc
nhở của Văn Thù Bồ Tát cho Thiện Tài, hết thảy
đều là dạy về tâm lư và thái độ để thân cận
thiện tri thức. Những lời dạy này vô cùng quư
báu và hết sức quan trọng. Vị thứ nhất mà Thiện
Tài tham phỏng là tỳ kheo Kiết Tường Vân, vị
thiện tri thức này tiêu biểu cho Viên Giáo Sơ
Trụ Bồ Tát, bốn mươi mốt vị Pháp thân đại sĩ
trong hội kinh Hoa Nghiêm. Tại sao lại xưng Pháp
thân đại sĩ bằng danh từ tỳ kheo? Ư nghĩa của tỳ
kheo này chẳng giống với ư nghĩa trong các kinh
khác; tỳ kheo là người xuất gia, ngài xuất cái
nhà nào? Không phải xuất cái nhà ruộng vườn, cái
nhà vợ con thê thiếp, ngài xuất cái nhà thập
pháp giới; vượt thoát thập pháp giới mới là thực
sự xuất gia. Vượt thoát ra khỏi thập pháp giới
rồi đi đến đâu? Đến Nhất Chân pháp giới. Hoa
Tạng thế giới là Nhất Chân pháp giới, Cực Lạc
thế giới cũng là Nhất Chân thế giới, tỳ kheo ở
đây tượng trưng cho ư nghĩa
này.
Thập
pháp giới là nhà, lục đạo là nhà, cái nhà này
rất phiền phức! Pháp môn trong Phật pháp rất
nhiều, kinh luận rất nhiều, tám vạn bốn ngàn
pháp môn, vô lượng pháp môn. Trên lư luận th́
bất cứ pháp môn nào cũng có thể giúp bạn vượt
thoát khỏi sáu nẻo luân hồi, vượt thoát thập
pháp giới, chứng được Nhất Chân pháp giới, tức
là thành Phật. Lư luận chẳng sai nhưng thực sự
căn tánh chúng sanh chúng ta chẳng giống nhau,
trong kinh thường chia ra ba loại căn tánh:
thượng, trung, hạ. Thượng căn lợi trí th́ không
có ǵ để nói, chẳng có vấn đề ǵ hết. Nhưng
chúng sanh có căn tánh trung, hạ th́ chẳng dễ,
rất nhiều pháp môn chúng ta chẳng có cách ǵ học
được, tuy chúng ta y theo lư luận, phương pháp
để tu nhưng cũng không thể thành tựu. Tại sao
không thể thành tựu? V́ không thể đoạn dứt phiền
năo, không thể đoạn dứt tập khí. Tu học Phật
pháp có thể thành tựu hay không là ở tại chỗ
này, chứ chẳng phải mỗi ngày đọc bao nhiêu quyển
kinh, tĩnh tọa bao nhiêu giờ đồng hồ, niệm bao
nhiêu vạn câu Phật hiệu. Những thứ này không
quan trọng, quan trọng là đoạn phiền năo, giảm bớt vọng niệm, đó
gọi là công phu!
B. Chúng sanh vốn là
Phật – v́ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà
đọa lạc trong sáu
nẻo, thập pháp giới.
Trong kinh Hoa Nghiêm đức Phật dạy rất rơ: 'Hết
thảy chúng sanh vốn thành Phật'. Chúng ta vốn là
Phật, tại sao ngày nay biến thành ra như vầy?
Vấn đề này chúng ta chẳng thể không nghiên cứu,
suy nghĩ, rốt cuộc là v́ nguyên nhân ǵ? Trong
kinh Hoa Nghiêm đức Phật v́ chúng ta nói ra:
'Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ đức tướng
của Như Lai'. Trí huệ của Như Lai rốt ráo, viên
măn, không có ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng thể
làm, không những biết thế giới hiện nay, thế
giới ở phương khác cũng biết; quá khứ vô thỉ, vị
lai vô chung, không có ǵ chẳng biết, Phật dạy
đây là bản năng của chúng
ta.
Tại
sao bản năng của chúng ta bị mất hết? Phật dạy:
'Nhưng v́ vọng tưởng, chấp trước mà không thể
chứng được'. Đức Phật nói rơ bịnh căn của chúng
ta – có chấp trước, có phân biệt, có vọng tưởng.
V́ vậy toàn bộ Phật pháp đều tập trung trên ba
vấn đề này, ngàn kinh vạn luận đều có mục đích
giúp chúng ta giải quyết vấn đề này, phá trừ
những phiền năo này. V́ chấp trước nên bạn biến
Nhất Chân pháp giới thành sáu nẻo luân hồi. Sáu
nẻo luân hồi là do chấp trước mà ra. Chấp trước
là ǵ? Phần đông chúng ta gọi là ‘thành kiến’ –
cách suy nghĩ, cách làm của ḿnh -- Như vậy rắc
rối lắm, vĩnh viễn chẳng thoát ra khỏi sáu nẻo
luân hồi. [Nếu c̣n chấp trước th́ dù] một ngày
bạn niệm Phật đến mười vạn câu cũng vẫn kẹt
trong sáu nẻo luân hồi; điều này hết sức phiền
phức!
Chuyện ǵ đều có ‘Ngă’ (Ta) th́ phiền lắm, cho
nên Phật dạy chúng ta ‘Vô Ngă’. Bạn xem câu đầu
tiên trong kinh Kim Cang dạy: 'Không có tướng
ta, không có tướng người, không có tướng chúng
sanh, không có tướng thọ giả'. Chuyện ǵ cũng
chấp trước là Ta th́ hỏng ngay! Tu hành được
giỏi cách mấy, giới luật có nghiêm chỉnh đến
đâu, một khi ngồi xếp bằng nhập định có thể nhập
định một trăm năm, nhưng chỉ cần bạn có ‘Ta’ th́
hỏng liền. Công phu như vậy là công phu thiền
định thế gian, vẫn không thể vượt ra khỏi lục
đạo. Cho nên việc đầu tiên trong Phật pháp là
phải ‘phá ngă chấp’. Mọi người đều biết sau khi
phá ngă chấp th́ chứng được quả vị A La Hán, ra
khỏi tam giới, lục đạo đều không c̣n nữa. Ngoài
lục đạo c̣n có Tứ Thánh pháp giới: Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Tứ Thánh pháp giới do
đâu mà có? Do ‘Phân biệt’ mà có. Tuy không c̣n
chấp trước nữa nhưng vẫn c̣n phân biệt. Trong Tứ
Thánh pháp giới càng lên cao th́ tâm phân biệt
càng giảm bớt; tuy ít nhưng vẫn c̣n phân biệt
nên ở phía ngoài c̣n thêm một giới hạn nữa gọi
là thập pháp giới, bạn vượt thoát không nổi! Khi
nào đoạn dứt hết phân biệt, vượt ra khỏi mười
pháp giới th́ đến Nhất Chân pháp
giới.
Trong kinh Đại thừa thường nói thành Phật cần
phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp; ba A Tăng Kỳ
kiếp bắt đầu tính từ ngày nào? Chẳng phải tính
từ hiện nay, hiện nay chúng ta không đủ tư cách;
là tính từ ngày hết thảy phân biệt chấp trước
đều đoạn dứt, là tính từ ngày vượt thoát ra khỏi
thập pháp giới. Lúc bạn c̣n chưa vượt khỏi thập
pháp giới th́ tất cả những ǵ bạn tu đều không
kể, như vậy lục đạo chẳng cần bàn tới. Cho nên
chứng được Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật
quả trong thập pháp giới, ngay cả Phật cũng
chẳng kể; Phật ở đây là Tạng Giáo Phật, Viên
Giáo Phật trong Tông Thiên Thai, vẫn c̣n ở trong
thập pháp giới, cũng chưa kể. Phân biệt, chấp
trước thiệt đă đoạn dứt sạch sành sanh mới đến
Nhất Chân pháp giới, chứng Viên Giáo Sơ Trụ Bồ
Tát, Biệt Giáo Sơ Địa Bồ Tát, tính là tính từ
lúc này, phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp
nữa!
Ba A
Tăng Kỳ kiếp để phá cái ǵ? Phá vọng tưởng. Lúc
bấy giờ mới phá vọng tưởng, một phiền năo trong
ba thứ ‘vọng tưởng, phân biệt, chấp trước’. A
Tăng Kỳ kiếp thứ nhất là để phá ba mươi phẩm -- Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng; A Tăng Kỳ kiếp thứ nh́ phá
bảy phẩm – Sơ Địa đến Thất Địa; A Tăng Kỳ kiếp
thứ ba phá ba phẩm, càng trở về sau càng khó,
đến Pháp Vân Địa Bồ Tát th́ mới gọi là viên măn
thành Phật. Chúng ta chẳng thể không biết những
thường thức căn bản này, chẳng thể không biết
chúng ta tu cái ǵ, công phu của chúng ta ở tại
đâu? Chúng ta phải hiểu rơ những chuyện này, sau
đó quan sát tám vạn bốn ngàn pháp môn, đối với
bất cứ pháp môn nào chúng ta đều không thể giải
quyết vấn đề; đừng nói đến những vọng tưởng,
phân biệt nhỏ bé, ngay cả tập khí nặng nhất là
chấp trước, chúng ta đều đoạn không nổi, như vậy
th́ c̣n nói chi đến thành
tựu!
C. Chắc thật niệm Phật, khỏi đoạn
phiền năo, một đời thành Phật.
Ngàn kinh vạn luận, vô lượng pháp môn, chúng ta
nh́n nó mà than vắn thở dài, thiệt là không [có
cách chi để] đạt được lợi ích!
[Bây giờ
biết được vấn đề này] th́ chẳng thể không cám ơn
đức Phật A Di Đà đă mở ra pháp môn ‘Đới Nghiệp Văng
Sanh’ cho chúng ta, người xưa gọi là ‘môn dư đại
đạo’ (con đường tắt để thành Phật ngoài tám vạn
bốn ngàn pháp môn). Sự ích lợi của pháp môn này
là không cần đoạn phiền năo; cũng là nói bạn
khỏi phải vượt thoát lục đạo, thập pháp giới,
nhưng ngay trong đời này bạn có thể văng sanh về
Nhất Chân pháp giới (Cực Lạc thế giới tức là
Nhất Chân pháp giới). Điều tiện nghi này quá to
lớn v́ vậy pháp môn này được gọi là ‘pháp khó
tin’. Chẳng phải là chúng ta khó tin, chúng ta
ai cũng đă tin; [Vậy th́] ai khó tin? Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát, Phật trong thập pháp giới
đều chẳng tin; họ cho rằng làm sao có chuyện dễ
dàng, tiện lợi như vậy! Một phẩm vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước cũng chưa đoạn mà có thể
vượt thoát lục đạo, vượt thoát thập pháp giới,
làm sao có chuyện
này!
Đích
thực trên lư luận không thể nào nói cho hợp lư
được, nhưng đây là sự thật. Sự thật này đương
nhiên cũng có nhân duyên. Tại sao có chuyện này?
Chúng ta t́m được câu trả lời trong kinh Hoa
Nghiêm, kinh Vô Lượng Thọ; nhân duyên có hai
thứ, thứ nhất là bổn nguyện oai thần của đức
Phật A Di Đà gia tŕ, thứ hai là thiện căn,
phước đức, nhân duyên của ḿnh đă chín muồi.
Kinh A Di Đà nói: 'Chẳng thể dùng ít thiện căn,
phước đức, nhân duyên'. Tự ḿnh đầy đủ thiện
căn, phước đức, nhân duyên, và được bổn nguyện cùng oai thần
của đức Phật A Di Đà gia tŕ nên ngay trong đời
này chẳng cần đoạn phiền năo mà có thể đới
nghiệp văng sanh. Pháp môn này hết sức thù
thắng, kỳ diệu đặc biệt, không thể nào kiếm ra
pháp môn thứ hai nữa. Thế nên chúng ta sanh vào
thời kỳ mạt pháp mà muốn ngay trong một đời này
liễu sanh tử, xuất tam giới th́ chỉ có con đường
duy nhất này mà thôi. Đây là điều chúng ta cần phải nhận
thức rơ ràng rồi sau đó chúng ta mới quyết tâm,
tha thiết, chắc thật niệm Phật. Được vậy th́ xin
chúc mừng bạn, ngay trong một đời này sẽ làm
Phật, không có ǵ thù thắng hơn việc
này.
D. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối. Năng chấp, sở chấp đều không thể đạt
được.
Như thế nào mới gọi là chắc thật? Trong kinh
Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta
phương pháp niệm Phật: 'Nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối’ (Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm
tương kế), hết thảy chỉ có tám chữ. Nếu làm được
tám chữ này th́ đó tức là tiêu chuẩn của người
chắc thật.
Nhiếp trọn sáu căn là ǵ? Nói thực ra Bồ Tát
Quán Thế Âm đă dùng phương pháp này tu hành
thành tựu. Bồ Tát Quán Thế Âm trong kinh Lăng
Nghiêm, Chương Viên Thông có dạy: 'Xoay trở lại
nghe nơi tự tánh, tánh thành đạo vô thượng’
(Phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng
đạo). Đây là tổng cương lănh tu hành của Bồ Tát
Quán Thế Âm. Phản văn tức là thâu nhiếp sáu căn.
Phàm phu chúng ta khi mắt thấy sắc, tai nghe âm
thanh, tâm cứ chạy nhảy bên ngoài, đều là phân
biệt, chấp trước cảnh giới bên ngoài, như vậy là
sai lầm. Sai ở chỗ nào? Kinh Kim Cang dạy chúng
ta 'Ba tâm không thể được;; tâm là ǵ, tâm tức
là ư niệm, là tư
tưởng.
Phật dạy: 'Tâm quá khứ không thể đạt được' tức
là lúc trước không thể được, 'tâm hiện nay không
đạt được', nói hiện nay th́ hiện nay đă biến
thành quá khứ; 'tâm tương lai không đạt được'tức
là sau này không thể được. Điều này nói rơ ‘cái
tâm mà bạn đạt được đó là hư vọng, chẳng phải
thiệt’; tức là cái ư niệm mà bạn có thể chấp
trước, phân biệt đó đều là hư vọng, chẳng phải
chân thật. Bạn xem vật này thành chính ḿnh, đó
không phải là oan uổng sao! Đức Phật gọi cảnh
giới bên ngoài mà bạn tư duy là 'pháp do nhân
duyên sanh'. Không những pháp thế gian do nhân
duyên sanh, Phật pháp xuất thế gian cũng do nhân
duyên sanh. Phàm những ǵ do nhân duyên sanh th́
bản thể vốn là không, trọn chẳng thể đạt được
(đương thể tức không, liễu bất khả đắc). Nói
cách khác, những ǵ bạn chấp đều không thể được,
năng chấp (chủ thể chấp), sở chấp(cái được
chấp)đều chẳng thể được, đây là chân tướng sự
thật!
Hết
thảy chúng sanh mê hoặc điên đảo, cứ tưởng ḿnh
có ‘chủ thể có thể chấp trước’, cảnh giới bên
ngoài là ‘cái được ḿnh chấp trước’, đó gọi là
khởi vọng tưởng. Lúc khởi vọng tưởng th́ biến
thành lục đạo luân hồi, biến thành tam ác đạo,
sẽ tạo nên rất nhiều thứ nghiệp. Cho nên trong
kinh đức Phật gọi những người này là ‘những
người đáng thương’, thiệt là tội nghiệp! Đúng
thiệt chỉ là một con số không, là mộng, huyễn,
bọt, bóng – trong mộng, huyễn, bọt, bóng làm
việc sinh nhai, trong mộng, huyễn, bọt, bóng tạo
nghiệp, thọ tội; bạn nói như vậy chẳng phải oan
uổng lắm
sao?
Phật
dạy chúng ta: 'Pháp c̣n phải xả, huống chi là
phi pháp'. Xả tức là không nên chấp trước. Phật
pháp cũng không được chấp trước, huống chi là
pháp thế gian? Việc này được giảng vô cùng thấu
triệt; nếu bạn chẳng chấp trước ǵ hết th́ tâm
bạn sẽ thanh tịnh, tự tại. Đó tức là câu 'Tín
tâm thanh tịnh, ắt sanh thật tướng'trong kinh.
Tự tánh Bát Nhă hiện tiền, lúc đó sẽ nhập Như
Lai Địa. Tại sao chúng ta khởi vọng tưởng? Tại
sao tự ḿnh lại gây chuyện rắc rối cho ḿnh? Hy
vọng các bạn đồng tu đặc biệt chú ư điểm này,
phải thường xuyên nhắc nhở chính ḿnh: ‘lúc khởi
tâm động niệm, hết thảy tạo tác, đừng gây rắc
rối cho
ḿnh’.
Bạn
có gây trở ngại cho người khác chăng? Nói cho
quư vị biết tuyệt đối chẳng có. Nếu bạn có năng
lực gây trở ngại cho người khác, chư Phật cũng
tôn bạn làm thầy. Nguyên nhân là ǵ vậy? Hết
thảy chư Phật chẳng có năng lực này! Bạn làm sao
có năng lực này? Bạn nói có thể gây trở ngại cho
người khác, đó đều là hảo hợp, nhân duyên [trùng
hợp], đâu phải bạn có năng lực này? Đây là khởi
vọng tưởng. 'Một miếng ăn, một hớp nước đều đă
định sẵn từ trước', đây là định luật nhân quả. Bạn làm sao có năng
lực thay đổi nhân quả? Chẳng có đạo lư này. Ngay
cả Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể thay đổi nhân
quả, trong kinh đă nói quá nhiều rồi, nêu thí dụ
cũng rất nhiều. Nếu Phật có năng lực thay đổi
nhân quả th́ chúng ta đâu cần phải tu hành chi
nữa? Nếu Phật chẳng độ chúng ta thành Phật th́
Ngài đâu có từ bi? Nói thiệt ra Phật không có
năng lực thay đổi nhân quả, nhất định là 'tự
ḿnh làm, tự ḿnh chịu; tự bạn khởi lên vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, th́ bạn phải đích
thân đoạn trừ chấp trước, phân biệt, vọng tưởng.
'Mở thắt gút vẫn phải do người buộc mở', chuyện
này bất cứ người nào khác cũng chẳng giúp được,
đây là chân lư.
E. Ban châu Tam
muội.
Đức Phật từ bi đối với chúng ta bằng cách giải
thích rơ chân tướng sự thật cho chúng ta biết,
Ngài giúp chúng ta chỉ có thể giúp đến mức này,
những việc sau đó phải do ḿnh tự giải quyết. V́
vậy niệm Phật phải ‘chắc thật niệm’! Phương pháp
của Kiết Tường Vân tỳ kheo dùng trong kinh Hoa
Nghiêm là phương pháp chúng ta thường gọi : ‘Ban
Châu Tam Muội’. Đây là một phương thức tu hành
rất hay, chúng ta nên tham khảo. Trong Niệm Phật
Đường hiện nay chúng ta chia thành ba khu vực:
chỉ tịnh, lạy Phật, và nhiễu Phật. Nhiễu Phật
tức là Ban Châu Tam Muội. Hành Sách đại sư có
viết cuốn ‘Tịnh Độ Tập’, phía sau có một đoạn
dạy phương pháp niệm Phật trong Niệm Phật Đường,
lúc chưa coi quyển sách này, tôi cũng đă nghĩ
đến một phương pháp rất giống phương pháp của
Ngài. Đạo tràng ngày xưa lớn, chúng (người trụ)
ở đó nhiều, cho nên chia thành ba nhóm, mỗi nhóm
có bốn vị pháp sư dẫn đầu, một nhóm nhiễu Phật,
hai nhóm kia chỉ tịnh. Nhiễu Phật phải niệm ra
tiếng, chỉ tịnh th́ im lặng, trong tâm niệm
theo. Một nhóm nhiễu Phật vài ṿng xong rồi trở
về chỗ cũ của ḿnh. Nhóm thứ hai tiếp tục nhiễu
Phật. Phương pháp này là dành cho chúng sanh đời
mạt pháp, nghiệp chướng quá nặng, không có năng
lực kinh hành trong thời gian dài, để cho bạn
ngồi xuống nghỉ mệt, cho nghỉ mệt là ḷng đại từ
đại bi của Tổ
sư.
Ban
Châu Tam Muội thực sự th́ trong chín mươi ngày
đều nhiễu Phật, chẳng được ngồi, chẳng được nằm,
ngày đêm chẳng
gián đoạn. Quư vị nghĩ coi ngày nay ai có năng
lực như vậy? Ai có thể làm được đến chín mươi
ngày? Cổ đức trong chú giải cũng lo người đời
sau chẳng có thể lực, chẳng đủ tinh thần nên
giảm thành bảy ngày. Họ nói bảy ngày, tôi thâu
ngắn lại thành một ngày. Bạn có thể trong một
ngày không ngủ, không ngồi, không nằm suốt hai
mươi bốn giờ, chỉ nhiễu Phật, đây là phương pháp
tu hành Ban Châu Tam
Muội.
Dụng
công cả ngày trong Niệm Phật Đường thực sự rất
mệt, khi nào mệt th́ có thể ngồi xuống nghỉ mệt,
chỉ nghỉ một lát, cảm thấy có thể đi trở lại th́
liền đứng dậy nhiễu; ngồi xuống là v́ thân thể
mỏi mệt chịu không nổi, xin Phật cho phép nghỉ
mệt, là phương pháp như vậy. Thế nên trong Niệm
Phật Đường dùng nhiễu Phật làm [phương pháp]
chính; lúc nhiễu Phật phải niệm ra tiếng; chúng
ta ngày nay có máy niệm Phật rất tiện lợi,
[chúng ta có thể] niệm theo tốc độ và âm điệu
của máy niệm Phật. Pháp khí chỉ cần một người
dẫn khánh, và gơ khánh vào lúc niệm chữ ‘Đà’
trong câu ‘A Di Đà Phật’. Hiện nay phần đông
người ta gơ hai tiếng vào hai chữ ‘A’ và ‘Đà’,
trên thực tế chỉ cần gơ vào chữ ‘Đà’, đích thật
rất tiện lợi, như vậy mới dễ nhiếp tâm, mới thực
sự làm được 'Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối'. ‘Tịnh niệm’ tức là chẳng có hoài nghi,
chẳng xen tạp th́ niệm của bạn sẽ ‘tịnh’. Tiếp
nối tức là không đứt đoạn, niệm Phật chẳng đứt
đoạn, miệng tạm ngừng không niệm ra tiếng, nhưng
trong tâm niệm Phật chẳng ngừng. Nếu có thể huấn
luyện trong một thời gian dài, lại được Tam Bảo
gia tŕ, tôi tin tưởng thân thể bạn sẽ ngày càng
khỏe, càng cường tráng, tinh thần càng sung túc,
mặt mày càng trang nghiêm, đây là đạo lư nhất định. Hiệu quả học
Phật phải từ đây mà nh́n, mới nắm chắc sự văng
sanh Tây phương Cực Lạc thế
giới.
F. Tướng lành lúc Hàn Quán Trưởng văng
sanh.
Gần đây hội trưởng của chúng ta, Hàn Quán Trưởng
văng sanh, tướng lành của bà lúc văng sanh đă
đem lại cho chúng ta niềm tin rất lớn, giải
thích cho chúng ta rất nhiều, nói rơ niệm Phật
văng sanh là thiệt, chẳng phải giả. Chúng ta
cũng đă tiễn đưa rất nhiều bạn bè, thân quyến,
tiễn đưa lần cuối. Hôm qua tôi gặp Thái cư sĩ
trên máy bay, Thái cư sĩ nói kỳ này về Đài Loan,
trong ṿng ba tháng đă tiễn đưa hết bốn người,
mạng người hết sức vô thường! Bạn quan sát kỹ
những người sắp ra đi, trong lúc họ đang bịnh
nặng nhưng chưa mất, họ đều nói đă nh́n thấy
thần, thấy quỷ, rất giống với những lời dạy
trong kinh Địa Tạng, họ nh́n thấy người này đến,
người kia đến, những người này đều là những thân
quyến đă qua đời; có phải thiệt là họ đến hay
không? Kinh Địa Tạng dạy: không phải. Đó là
những oan gia chủ nợ thấy người này sắp mất nên
biến thành thân quyến để dụ dỗ họ, dẫn dụ họ để
thanh toán, đ̣i nợ cũ, đều chẳng phải thật.
Chúng tôi đă gặp qua rất nhiều, hầu như mỗi
người lúc lâm chung đều có hiện tượng này, rất
giống lời dạy trong kinh Địa
Tạng.
Hàn
Quán Trưởng mang bịnh nằm bịnh viện, chúng tôi
biết yêu ma quỷ quái trong bịnh viện rất nhiều,
có ngày nào trong bịnh viện chẳng có người chết?
Mỗi ngày đều có. Rất nhiều bác sĩ, y tá chẳng
tin Phật nhưng lại tin có quỷ; tại sao vậy? Họ
đều đă thấy, thiệt là đă nh́n thấy, không giả chút nào! Có
lúc cũng nh́n thấy Quỷ Vô Thường -- Bạch Vô
Thường và Hắc Vô Thường xuất hiện ở cửa pḥng
người bịnh nào th́ người này chỉ sống thêm được
nhiều lắm là ba ngày. Họ thường thấy những cảnh
tượng này. Lúc Hàn Quán Trưởng nằm bịnh viện,
chúng tôi lo lắng nhất là chuyện này nên khi
bịnh t́nh của bà chuyển nặng, những người xuất
gia chúng tôi đều đến pḥng thủ. Ở Đài Loan lúc
bấy giờ rất nóng, tôi dặn các vị xuất gia khi
trợ niệm trong bịnh viện luôn luôn phải đắp y.
Trên đầu giường bịnh chúng tôi có đặt tượng đức
Phật A Di Đà và kinh điển Đại Thừa, đầy đủ Tam
Bảo! Mục đích là để ngăn chận không cho những oan gia
chủ nợ đến gần. Chúng tôi làm việc này rất chu
đáo, bảo vệ vô cùng cẩn mật, từ lúc sanh bịnh
đến lúc mất, bà chẳng nói là đă nh́n thấy một ai hết, được
vậy nên chúng tôi rất an
tâm.
Không
những trong lúc niệm Phật, ngay lúc bịnh chuyển
nặng bà cũng chẳng nh́n thấy ai cả. Bác sĩ, y tá
trong bịnh viện nói với chúng tôi rằng khí phần
(hoàn cảnh chung quanh) trong bịnh viện đều khác
lúc b́nh thường, hết sức kiết tường và an ḥa;
chẳng giống hồi trước mỗi khi ra vào đều cảm
thấy rất kinh sợ, đều có cảm giác bất an, kỳ lạ.
Đây đúng là oai thần Tam Bảo gia tŕ. Chúng tôi
hiểu được đạo lư này nên pḥng vệ hết sức nghiêm
mật. Mỗi ngày tôi đều đến bịnh viện hai ba lần,
phần lớn thời gian đều dành để trợ niệm cho bà.
Một bữa trưa ngày nọ bà kêu con bà gọi điện
thoại cho tôi. Vốn là mỗi buổi trưa tôi trở về
thư viện nghỉ ngơi, ngủ trưa, cỡ ba giờ hơn trở
lại thăm bà. Hôm đó cỡ hơn mười hai giờ bà gọi
điện kêu tôi giữa bữa ăn trưa. Lúc đó t́nh h́nh
rất nguy cấp, tôi đến nói chuyện với bà, đại
khái đến ba giờ th́ dường như bà có vẻ mê man,
chúng tôi bèn niệm Phật lớn tiếng, chánh thức
bắt đầu trợ niệm, nhắc nhở bà cầu sanh Tịnh Độ,
đợi A Di Đà Phật đến tiếp
dẫn.
1. Thấy Phật lần đầu.
Đến sáu, bảy giờ chiều, bác sĩ phụ trách đến
khám xong và nói với con bà rằng chắc bà chỉ c̣n
hai giờ nữa thôi. V́ vậy chúng tôi niệm Phật
[lớn tiếng] lên, chúng tôi niệm đến tám giờ th́
bà tỉnh dậy, tinh thần rất tỉnh táo, muốn uống
nước và ăn chút đỉnh thức ăn. Đến mười hai giờ
rưỡi khuya bà rất vui mừng và la lớn tiếng: ‘A
Di Đà Phật đến ḱa’ -- lần thứ nhất thấy A Di Đà
Phật, cỡ chừng ba, bốn phút rồi sau đó nói A Di
Đà Phật đă đi rồi. Tôi nói chắc A Di Đà Phật đến
thăm bà, an ủi bà, có lẽ bà sẽ khỏe lại. Chúng
tôi tưởng bà ‘hồi quang phản chiếu’, nhưng sau
đó tinh thần bà càng khỏe thêm nên tôi nói
chuyện với bà về vấn đề phát triển công tác
hoằng pháp lợi sanh trong tương lai. Bà đề ra việc lớn thứ
nhất là việc giáo dục vô cùng quan trọng, nhất
định không thể gián đoạn; Kinh Hoa Nghiêm lần
này là do bà yêu cầu giảng, bà hy vọng có thể
giảng được viên
măn.
Chúng
tôi nói chuyện khoảng hai giờ rưỡi, đến hai giờ
mấy khuya tinh thần của bà rất tốt, tôi thấy
chắc yên rồi nên mời bác sĩ đến khám cho bà thử
xem sao. Bác sĩ lắc đầu
nói:
‘Thiệt là không thể tưởng tượng nổi! Những người
niệm Phật như quư vị rất lạ lùng, không thể nghĩ
bàn! H́nh như bà ngày càng khỏe
thêm’.
Đây
là lần thứ nhất bà nh́n thấy A Di Đà Phật, tôi
nói với
bà:
‘Bây
giờ bác niệm A Di Đà Phật so với chúng tôi th́
thân thiết hơn nhiều, bác đă thấy Phật, chúng
tôi c̣n chưa thấy
nữa’.
Bà
nói: ‘Đúng! Đúng
vậy!’
Hôm
sau tôi đi thăm bà, tất cả đều b́nh
thường.
Ngày kế tiếp tôi nhớ đến những ǵ bàn trong
đêm trước nên
viết ra giấy, viết thành mười hai điều. Buổi
chiều lúc tôi đi thăm bà, đọc từng điều từng
điều ra cho bà nghe, nghe xong bà rất vui
vẻ.
Bà rất
tỉnh táo, đầu óc tỉnh táo cùng chúng tôi niệm
Phật. Ngay lúc đó tôi liền nghĩ đến một chuyện,
áo cà sa của tôi có màu cà phê nhưng tôi nghĩ
đến phần đông người xuất gia đều mặc áo hải
thanh (áo tràng) màu vàng, đắp cà sa màu đỏ,
việc này không đúng như pháp; hết thảy kinh luận
Đại thừa và Tiểu thừa đều ghi người xuất gia mặc
áo nhiễm sắc (nhuộm màu), không có màu vàng, màu
đỏ, chẳng có những màu này. Quán Trưởng luôn
nhấn mạnh: chúng ta phải làm đúng như pháp,
người xuất gia chúng ta phải làm gương mẫu,
người tại gia phải làm gương mẫu, đạo tràng cũng
phải làm gương mẫu. Đây là nguyện vọng của bà.
Thế nên tôi nghĩ những người xuất gia ở thư viện
phải may lại y phục. Tôi gọi thầy Ngộ Đạo liên
lạc với tiệm may tăng phục Bản Kiều, kêu họ đến
để đo kích thước may áo, sau đó chúng tôi ra
về.
2. Thấy Phật lần thứ
hai.
Đại khái sau khi tôi rời khỏi bịnh viện không
lâu, đó là trưa ngày bốn tây, bà thấy A Di Đà
Phật lần thứ hai, và c̣n thấy hoa sen, ao nước,
ao sen rất lớn. Lúc bà thấy đức Phật A Di Đà lần
thứ hai, tôi không có mặt tại bịnh viện. Tối hôm
đó bà chủ tiệm may đến đo kích thước, chúng tôi
hy vọng y phục có thể may nhanh nhanh, có thể là
chúng tôi sẽ cần dùng gấp! Bà chủ tiệm nói: ‘Tôi
biết rồi’.
Mọi người ở Thư Viện nghe xong đều rất ngạc
nhiên, bà làm sao biết trước rồi? Bà nói: ‘Hồi
trưa này A Di Đà Phật thông báo cho bà biết, nói
Thư Viện có chuyện gấp, quư vị nhất định phải
may nhanh nhanh cho
họ’.
Nghe
xong trong tâm chúng tôi cảm thấy rất an ủi,
chuyện của Quán Trưởng đă được A Di Đà Phật an
bài sẵn giúp bà. Bà chủ tiệm nghe đức Phật A Di
Đà dặn những chuyện này cùng lúc với Quán Trưởng
thấy Phật lần thứ nh́. Một người th́ đang nằm
trong bịnh viện Tam Quân, một người th́ ở Bản
Kiều, thời gian cùng lúc, thiệt là không thể
nghĩ bàn!
Buổi chiều hôm đó tôi vào bịnh viện thăm Quán
Trưởng.
Tôi nói: ‘Bác đă thấy A Di Đà Phật phải
không?’
Bà
nói: ‘Dạ đúng
vậy’
Tôi
nói: ‘Bác có cảm thấy được A Di Đà Phật rất từ
bi, rất thân thiết phải không?’ Bà nói: ‘Đúng
lắm, Ngài thiệt là hết sức từ bi, vô cùng thân
thiết’.
Chuyện này không giả đâu! Bà đă đem lại cho chúng ta niềm
tin [to lớn].
Bà chủ
tiệm may tăng phục quả nhiên không sai, bà đă chuẩn bị vật liệu ở
nhà hết rồi, nên lúc Quán trưởng văng sanh, lúc
chúng tôi trợ niệm đắp y đều có màu cà phê, đích
thật là rất đúng như pháp.
G. Uống nước nhớ nguồn,
bàn về ân đức. Ân của thầy, ân của hộ
pháp.
Con người của Quán Trưởng, rất nhiều đồng tu
trong quư vị đă thường ở chung chỗ hoặc tiếp xúc
qua rồi, cả ngày từ sáng đến tối, cái miệng bà
cứ lép chép hoài, h́nh như chưa thấy bà niệm
Phật. Tại sao bà lại có thể văng sanh một cách
hết sức thù thắng như vậy? Chúng ta suy nghĩ kỹ
lưỡng, bà không phải là người thường, bà là do A
Di Đà Phật phái đến để hộ pháp đấy. Điểm đặc
biệt của Tịnh Tông là bản hội tập kinh Vô Lượng
Thọ của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư, ngày nay đă được
hoằng truyền khắp thế giới, chúng ta uống nước
phải nhớ nguồn, truy t́m nguồn gốc này th́ đó
chính là công đức của bà đă hộ pháp, công đức này quá
lớn.
Năm
xưa khi chúng tôi giảng kinh ở Đài Bắc đă gặp
nhiều điều trắc trở, khó khăn không thể tưởng
tượng được! Đố kỵ, chướng ngại hầu như không có
lối thoát, bức bách đến nỗi chẳng hoàn tục th́
không được; gặp những khổ nạn to lớn như vậy!
Lúc đó bà là một thính chúng, lúc tôi giảng kinh
hai vợ chồng bà thường đến nghe giảng, biết được
hoàn cảnh khó khăn này nên có ư muốn giúp đỡ; họ
mời tôi đến đến thăm nhà của họ. Nhà của họ là
một căn nhà đơn
độc xây theo lối mới, trên lầu c̣n pḥng trống,
con trai bà đang
học trung học, một ḿnh ở trên lầu. Bà hỏi tôi:
‘Hoàn cảnh như vậy thầy có thể trú nơi đây
không?’. Tôi xem xong cũng hoan hỷ, sau đó tôi
về Đài Trung kể câu chuyện này xin phép thầy Lư,
thầy Lư cho phép: ‘Được!’, từ đó tôi bèn trú ở
nhà bà, [gia đ́nh] bà hộ
tŕ.
Pháp
sư giảng kinh thiệt là không dễ chút nào, có
tiếng tăm vượt trội người khác vô cùng khó khăn!
Cần giảng đài,
cần người nghe để tập luyện. Bà giúp tôi kiếm
chỗ, mướn chỗ, mượn chỗ để giảng, và mời một số
bạn bè đến nghe
giảng, giúp cho tôi giảng kinh được liên tục,
chẳng gián đoạn. Bà đă hộ tŕ suốt ba mươi năm, bà thiệt là
hết sức bền chí và nhẫn nại! Chúng ta ngày nay
được thành tựu, lúc bà bị bịnh nặng, trong kinh
Địa Tạng có dạy [chúng ta] phải nói cho bà biết
cả đời này bà đă
làm được những chuyện ǵ tốt, làm cho bà vững
ḷng tin có thể văng sanh, điểm này rất quan
trọng.
Tôi
nói chúng tôi giống như một cây bồ đề, mầm cây
con là do Chương Gia đại sư vun trồng, lớn lên
thành một cây nhỏ là nhờ mười năm ở Đài Trung
[được thầy Lư dạy dỗ]; lúc đó rất mềm yếu, người
ta muốn hủy diệt th́ rất dễ. Sau đó được sự hộ
tŕ suốt ba mươi năm của bà, ngày nay Tịnh Tông
được hoằng dương khắp trong và ngoài nước, đă
truyền khắp thế giới, cho nên nguồn gốc của sự
thành tựu này là do công đức của bà đă hộ tŕ. Lúc ra đi,
bà thấy Phật A Di Đà hai lần; A Di Đà Phật dặn
ḍ chúng tôi may y phục, c̣n hối thúc phải may
cho nhanh; nếu bà không phải A Di Đà Phật phái
đến th́ c̣n ai phái đến nữa? Nhân duyên này hết
sức hiếm có! Ân đức này chẳng phải dành riêng
cho chỉ một ḿnh tôi, mỗi người niệm kinh Vô
Lượng Thọ, mỗi người hôm nay niệm A Di Đà Phật,
đều được một phần ân đức, đạo lư là ở chỗ này.
Cho nên hoằng pháp và hộ pháp đều không dễ, cần
phải có đầy đủ trí huệ, nhẫn nại, nghị lực, phải
có thể nhẫn chịu hết thảy những lời hủy báng.
Đương nhiên cũng có người tán thán và có người
hủy báng, bạn đều phải nhận chịu hết. Bạn không
thể gặp một chút khó khăn liền thoái tâm, sợ
sệt, như vậy th́ uổng hết công lao từ trước.
Đích thực trong đời bà đă làm được điểm này; lúc đó mặc kệ
người nào nói thêm, nói bớt, châm thọc, công
kích, bà vẫn như như chẳng động. Chúng tôi ra
nước ngoài hoằng pháp cũng là do bà [lo giấy tờ]
t́m phương pháp dẹp tan chướng ngại. V́ lúc
trước người xuất gia muốn ra ngoại quốc phải
thông qua sự chấp thuận của ‘Hội Phật Giáo Trung
Quốc’, nếu họ chẳng cho th́ người ấy không xin
được hộ chiếu. Tự ḿnh tôi biết rất rơ, Quán
Trưởng cũng biết, Hội Phật Giáo Trung Quốc tuyệt
đối sẽ không giúp tôi làm việc này. V́ lo cho
tôi ra nước ngoài hoằng pháp nên bà gia nhập vào
‘Hội Vạn Quốc Đạo Đức’. Những người lănh đạo hội
này lúc đó đều là những người xuất xứ từ vùng
Đông Bắc, họ là người đồng hương với bà, sau đó
bà nhờ Hội Vạn Quốc Đạo Đức mời tôi làm cố vấn,
tôi đi theo phái đoàn của họ đến Los Angeles dự
buổi họp những đại biểu trên toàn thế giới lần
thứ ba. Tôi được hội Vạn Quốc này làm hộ chiếu;
chuyện làm hộ chiếu thực ra cũng là do Tam Bảo
gia tŕ. Hội đoàn chúng tôi gồm có ba mươi mấy
người, lúc đi làm giấy tờ chỉ có tôi và bà Quán
Trưởng xin được hộ chiếu năm năm, những người
khác đều là ba tháng; thiệt là kỳ lạ! Sau khi ra
nước ngoài, bạn bè, học tṛ rất nhiều, [pháp]
duyên đă được kết rồi, từ đó mới bắt đầu sự
hoằng pháp quốc tế. Đây đều là do bà dụng tâm,
t́m cách vượt qua rất nhiều khó khăn, cho nên hộ
pháp là lực lượng của cá nhân
bà.
Bà
cũng thường khen ngợi cư sĩ Lư Mộc Nguyên, ngày
nay phong trào niệm Phật ở Nam Dương được hưng
thịnh là do một ḿnh ông lèo lái. Lần đầu tiên
tôi đến Tân Gia Ba là vào năm 1987, lúc đó tuy
Tân Gia Ba có rất nhiều đạo tràng, nhiều pháp
sư, nhưng không ai đề xướng niệm Phật, không ai
tu Tịnh Độ. Những năm gần đây chúng tôi đem Tịnh
Độ qua, đem kinh Vô Lượng Thọ đến, Mă Lai đă
thành lập được bảy, tám Tịnh Tông Học Hội, ở bên
đó hiện nay có rất nhiều người đọc kinh, nhiều
người niệm Phật, đôi lúc cũng nghe nói đến có
người văng sanh; đây là công đức của cá nhân ông
Lư Mộc Nguyên! Tôi thường nói với mọi người:
‘Quư vị nghĩ xem nếu không nhờ cư sĩ Lư Mộc
Nguyên, có ai thỉnh chúng tôi đến Tân Gia Ba
giảng kinh không?’. Chẳng có ai mời hết! Trong
hai năm nay không những mời giảng kinh, lại c̣n
tổ chức lớp Bồi Huấn, huấn luyện nhân tài [kế
thừa công việc hoằng pháp]. Việc này rất quan
trọng, công đức này càng lớn, càng khó thể nghĩ
bàn! Cho nên chúng ta thật sự nhờ hộ pháp là nhờ
vào một người, nếu không có người này dẫn đường
th́ không thể thành công.
H. Bậc tái lai – Lăo cư
sĩ Hạ Liên Cư hội tập Kinh Vô Lượng
Thọ.
Đương nhiên những người như họ đều chẳng phải là
người thường, đều có nhân duyên rất sâu dày với
Phật pháp, đều có sứ mạng không thể tưởng tượng
được, đúng như lời lăo cư sĩ Hạ Liên Cư đă nói
lúc c̣n tại thế. Có một năm tôi ở Bắc Kinh nghe
cư sĩ Hạ Pháp Thánh, cháu của cụ Hạ kể lại, Hạ
Pháp Thánh là học tṛ của lăo cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ, Hoàng Niệm Tổ là học tṛ của lăo cư sĩ Hạ
Liên Cư. Ông Hạ Pháp Thánh có một lần đến thăm
tôi và nói: ‘Lúc ông nội (lăo cư sĩ Hạ Liên Cư)
gần văng sanh, ông nói với những người ở chung
quanh: ‘Tương lai bản hội tập kinh này sẽ từ hải
ngoại truyền trở về Trung Quốc, hơn nữa bản kinh
này trong tương lai sẽ được truyền khắp thế
giới’. Họ nghe xong cảm thấy vô lư, họ đều nghĩ
rằng cụ Hạ gần đi rồi nên có lẽ đầu óc không c̣n
sáng suốt nữa, làm sao nói ra những lời như vậy,
chuyện này không thể nào xảy ra được. Bây giờ
nghĩ lại quả nhiên không sai, kinh Vô Lượng Thọ
đích thực là từ Đài Loan, Mỹ quốc truyền đến
Trung Quốc đại lục, hiện nay đích thực đă được
truyền khắp thế giới. Thế nên những người này
đều là Phật, Bồ Tát tái lai, đều chẳng phải
người
thường.
C̣n một câu chuyện khác cũng liên quan đến lăo
cư sĩ Hạ Liên Cư, chuyện này xảy ra lúc tôi
giảng đề tài ‘Nhận thức Phật giáo’ tại Miami, Mỹ
quốc. Lúc đó tôi [đang hoằng pháp dọc theo]
những vùng gần bờ biển phía đông của Mỹ, từ
NewYork, Washington DC cho đến Atlanta, c̣n một
trạm cuối cùng đến Miami. Ở mọi nơi trong chuyến
hoằng pháp này tôi đều giảng đại ư kinh Địa
Tạng. V́ tại Miami có rất nhiều người ngoại quốc
đến nghe giảng, cư sĩ Tăng Hiến Vĩ thông dịch
cho tôi, khả năng thông dịch của ông rất giỏi.
Khi tôi thấy có rất nhiều người ngoại quốc đến
nghe giảng nên đổi đề tài ‘Đại ư kinh Địa Tạng’
thành ‘Nhận Thức Phật Giáo’. Tôi nói [với ông
Tăng] tôi giảng đề tài này và ông phiên dịch,
tương lai lưu lại băng thâu âm, một bộ tiếng
Tàu, một bộ tiếng Anh có thể giúp người ngoại
quốc nhận thức và hiểu thêm về Phật Giáo, đây là
một việc rất
tốt.
Tăng
cư sĩ học Phật rất tạp, học Thiền, học Mật, và
rất thích chuyện thần thông, cảm ứng; vả lại ở
địa phương này (Miami) có rất nhiều người ‘khác
thường’, ông Tăng thường qua lại mật thiết với
họ. Lúc c̣n chưa đến đây tôi đă gởi trước cuốn
kinh Vô Lượng Thọ tới, đây là cuốn Chú Giải kinh
Vô Lượng Thọ của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, trang
đầu cuốn Chú Giải có h́nh của lăo cư sĩ Hạ Liên
Cư; ông Tăng đă đem tấm h́nh này cho những người
ngoại quốc có [thần] ‘thông’ xem, để họ xem
người này ra sao? Kết quả là những người này nói
rất đúng. Câu đầu tiên họ nói với Tăng cư sĩ:
‘Thân thể của ông cụ này trong suốt, ổng không
phải là người thường, đây là Bồ Tát tái lai’.
Không phải nh́n người, họ chỉ nh́n tấm h́nh mà
có thể nói như vậy. Cái ǵ gọi là ‘trong suốt’?
Nói thực ra chẳng có phiền năo th́ thân thể sẽ
trong suốt. Khi người ta vừa nh́n thân thể của
chúng ta liền thấy một màu đen thui, ở trong
chứa đựng cả đống tham, sân, si, mạn đấy
mà!
Điều
này nói rơ cụ Hạ chẳng có phiền năo, tức là
chẳng có phân biệt, chấp trước nên thân thể của
cụ trong suốt. Họ c̣n nói ‘Ông cụ này hiện nay
đă qua đời, lúc ổng c̣n sống th́ chẳng nổi
tiếng, ổng nhất định là người tái lai’, họ khẳng
định như vậy. Chuyện này xảy ra lúc tôi đến
Miami, Tăng cư sĩ kể lại cho tôi nghe. Hơn nữa
những người có ‘thông’ này đă từng nói với Tăng
cư sĩ: ‘Tại đạo tràng có pháp sư giảng kinh,
phần đông quư vị nh́n thấy dường như chỉ có một
số người đang ngồi tại đó nghe giảng , thực ra
có rất nhiều thiên long bát bộ, quỷ thần [cũng
đến tham dự].’ Tại sao họ tụ hợp tại chỗ này,
h́nh như họ cảm thấy rất vui vẻ? Có Phật quang
gia tŕ đấy! Bạn đừng tưởng đây là v́ pháp sư có
khẩu tài, giảng hay; không phải đâu, là do Phật
quang gia tŕ
đấy.
Những
người ngoại quốc này mỗi ngày đều đến, Tăng cư
sĩ nói với họ: ‘Quư vị có ḷng lắm’. Họ nói:
‘Không phải đâu, chúng tôi nghe cũng chẳng
hiểu’. Lời phiên dịch tuy chẳng sai, nhưng dù
sao lời phiên dịch vẫn không diễn tả hết ư
nghĩa. [Vậy th́] tại sao mỗi ngày họ đều đến? Để
được ‘tưới gội’ trong Phật quang. Họ nói: ‘Cảm
giác vô cùng sảng khoái’. Chữ Phật quang mà họ
dùng giống như danh từ ngày nay khoa học gia gọi
là ‘từ trường’, đích thật là chẳng như ngày
thường! Trong kinh có nói tương lai pháp vận của
đức Phật kéo dài mười hai ngàn năm, sau đó hết
thảy kinh điển đều bị diệt mất, duy chỉ có kinh
Vô Lượng Thọ c̣n được lưu lại một trăm năm.
Chúng ta ngày nay có thể nh́n thấy rơ ràng tương
lai bản kinh Vô Lượng Thọ được lưu lại thêm một
trăm năm sẽ là bản hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên
Cư, chúng ta có thể khẳng định như vậy. Bản kinh
này đích thật đă được hội tập rất khéo, hội tập
từ năm bản dịch gốc mà thành, cho nên tôi hy
vọng những đồng tu có năng lực đọc tụng, giảng
giải, bất luận là tại gia hay xuất gia đều phát
tâm học kinh này, giảng giải bộ kinh này. Công
đức vô lượng vô biên! Làm cho hết thảy đại chúng
nhận thức và hiểu rơ pháp môn Tịnh Độ, ngay
trong một đời sẽ được độ
thoát.
I. Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Vô Lượng Thọ
đều là pháp luân viên măn.
Tuy đời trước có thiện căn, có phước đức nhưng
nếu không có nhân duyên th́ vẫn không thể thành
tựu như cũ. Nhân duyên là ǵ? Nhân duyên nghĩa
là giảng giải bộ kinh này, làm cho họ nghe được,
t́m lại được thiện căn, phước đức của họ từ vô
lượng kiếp đến nay; kết hợp ba thứ ấy được th́
có thể thành tựu ngay trong một đời, v́ vậy nên
chúng tôi đặc biệt chú trọng bộ kinh này. Nội
dung của kinh này tức là toàn bộ kinh Hoa
Nghiêm, có thể nói kinh Hoa Nghiêm là chú giải
của kinh Vô Lượng Thọ. Chúng ta không có thời
gian lâu dài, không có tinh thần, năng lực để
giảng giải và đọc
tụng kinh Hoa Nghiêm th́ thọ tŕ kinh Vô Lượng
Thọ cũng
tốt.
Nhưng
nếu muốn giảng kinh này cho hay, giảng được thấu
suốt, th́ nhất định phải đọc kỹ kinh Hoa Nghiêm,
v́ trong đó hầu như câu nào, chữ nào cũng là
cảnh giới Đại Phương Quảng. Thế nên nếu chẳng
thâm nhập Hoa Nghiêm th́ rất khó giảng kinh này
được. Đây cũng là nguyên nhân Quán Trưởng thỉnh
cầu giảng kinh Hoa Nghiêm. Tôi nghĩ nếu có học
sinh tôi cũng chịu mở một lớp nhỏ để dạy kinh
Hoa Nghiêm, để có người kế thừa sau này. Nhưng
việc này đ̣i hỏi phải có tâm nhẫn nại rất lớn,
v́ trong thời gian ngắn không thể nào thành tựu
nổi. Hơn nữa phải buông bỏ hết thảy, dốc toàn
tâm toàn lực để tu học, đây là pháp luân viên
măn trong Phật pháp.
J. Chuyên tu Tịnh Độ.
Giải và Hành cùng coi trọng.
Chúng tôi lợi dụng thời gian ngắn ngủi vài ngày
này đến để xem xét hoàn cảnh ở đây, bây giờ đạo
tràng đă được xây dựng khá quy mô; hết sức quư
báu, nhân duyên vô cùng thù thắng! Chúng tôi tin
tưởng Tịnh Tông ở hai nơi Úc Châu và Tân Tây Lan
này sẽ có tương lai xáng lạn. Công đức vô lượng
ấy đều là của mỗi vị đồng tu hợp sức làm thành,
và cũng là do A Di Đà Phật, chư Phật Như Lai gia
tŕ cho mọi người. Hy vọng mọi người có ḷng
tin, thâm nhập một môn, chắc thật niệm Phật,
Giải và Hành cùng coi trọng. Hành môn th́ chúng
ta phải chắc thật niệm Phật; Giải môn th́ phải
nghe kinh, chẳng thể không nghe
kinh. Không
nghe kinh là người như thế nào? Hoàn toàn chẳng
c̣n nghi hoặc, kiền thành khẳng định, người như
vậy có thể khỏi nghe kinh. Nếu c̣n hoài nghi,
đối với Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn chưa rơ
ràng lắm th́ bạn cần phải nghe kinh. Nghe kinh
là để tăng trưởng
ḷng tin của bạn, tăng trưởng nguyện lực, đạo lư
là như
vậy.
Hiểu
rơ kinh rồi th́ bạn sẽ biết ḿnh phải tu học như
thế nào. Đặc biệt là trước khi văng sanh, thân
thể chúng ta c̣n ở tại thế gian, vẫn chưa thể xa
ĺa quần chúng, xă hội; chúng ta làm thế nào để
ứng phó với xă hội? Làm thế nào sanh sống hằng
ngày? Những câu trả lời đều nằm trọn trong kinh
giáo. Cho nên người chắc thật niệm Phật khỏi
nghe kinh, đây là người như thế nào? Đây là
người chẳng c̣n làm việc ǵ hết, chẳng giao
thiệp với bất cứ ai, chuyên ở tại Niệm Phật
Đường niệm Phật, thiệt là ‘muôn duyên buông
xuống hết’, hạng người này có thể [không nghe
kinh]. Nếu bạn c̣n tiếp xúc với xă hội, bạn bắt
buộc phải hiểu kinh giáo, có hiểu được th́ bạn
mới biết làm thế nào để ứng phó với mọi người
trong xă hội, làm thế nào dẫn dắt đại chúng đến
học Phật, tự hành hóa tha th́ công đức mới được
viên măn. V́ vậy nghe kinh và niệm Phật đều quan
trọng như
nhau.
Đạo
tràng chúng ta đề xướng ‘Giải và Hành cùng coi
trọng’ nên tương lai ở phía ngoài sẽ xây thêm
một giảng đường, giảng đường dành riêng để giảng
kinh, thuộc về Giải Môn – để khuyến tín, khuyến
nguyện. Chỗ này làm Phật Đường là đủ rồi, v́ thực ra người chân
chánh niệm Phật chẳng nhiều lắm. Tôi hy vọng
trong tương lai mỗi tháng đều tổ chức Phật thất
một lần, số người tham gia tốt nhất là bốn mươi
tám người. Bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà
vừa đúng với số bốn mươi tám người, nếu c̣n
nhiều người hơn số này th́ sắp cho họ đến tháng
sau; nếu nhiều hơn th́ sắp tới tháng sau nữa;
làm vậy để mọi người đều cảm thấy trân quư [cơ
hội tham dự] Phật thất này, vô cùng khó được --
khó có thể ghi danh được một chỗ. Như vậy th́
rất có ư nghĩa, rất
quư.
Nếu
đông người quá th́ tâm sẽ dễ chao động; tán gẫu,
nói chuyện nhiều quá sẽ không thâu thập được ích
lợi ǵ hết, vả lại chúng tôi sắp xếp, chuẩn bị
cũng khó khăn. Nếu số người mỗi tháng đều nhất
định là bốn mươi tám người, th́ chúng tôi chỉ
sắp xếp nơi ăn chốn ở đầy đủ cho bốn mươi tám
người mà thôi, việc tiếp đăi cũng rất thuận
tiện. Thế nên tôi hy vọng mỗi tháng đều đả Phật
thất, bất kể là người ở đây hay người từ nơi
khác đến, bốn mươi tám người đều phải ghi danh
trước. Nếu người nào mỗi khóa đều tham dự th́ sẽ
đặc biệt hoan nghinh, khóa nào cũng tham dự th́
nhất định sẽ có thành
tựu..