PHẬT  PHÁP  VIỆT  NAM  -  PHẬT  PHÁP  VIỆT  NAM

K H A I   T H Ị

Trách nhiệm lớn nhất của người tu Phật (cả xuất gia cũng như tại gia) là phải chỉ rơ cho hàng Phật tử thấy được lợi ích lớn lao của việc tu theo Đạo Phật ! ... Nếu người Phật tử thấy được lợi ích lớn lao khi tu theo Đạo Phật rồi th́ họ sẽ có an lạc ngay trong đời này cũng như đời vị lai. Đó là một lẽ thật không bao giờ sai và cũng là điểm khác biệt giữa Phật-giáo với những Tôn-giáo khác ... Bởi v́ Phật-giáo luôn luôn đặt nặng sự giác ngộ lên trên chứ không phải ḷng tin. Hay nói một cách khác Đạo Phật giáo hóa chúng sanh trở thành những người tốt và hữu ích cho xă hội, không đặt nặng ḷng tin ở Phật là một vị tối thượng ban phước hay giáng họa như những Tôn-giáo khác ! ... Nhưng tiếc thay ! Hiện nay không phải ai cũng đều nhận hiểu ra được điều này ! V́ thế nhân gian mới bị loạn động, tâm người mới bất an ! Đó là lỗi của mỗi người chúng ta không biết tu Phật và ứng dụng lời Phật dạy ngay trong hiện đời này ! ... Nếu tất cả chúng sanh trên thế gian này đều biết tu Phật và thực hành đúng như lời Phật dạy th́ thế giới này chắc chắn sẽ được ḥa b́nh, chúng sanh sẽ được an lạc. Đó là một lẽ thật ! ...

Dưới đây xin giới thiệu bài kệ của Đức Phật Ca-Diếp (Kassapa), thiết nghĩ rất có ích cho người tu Phật ( kể cả hàng Tu-sĩ xuất gia cũng như Cư-sĩ tại gia ) :

                                                                                  Kệ :

                                                                        Chư ác mạc tác

                                                                        Chúng thiện phụng hành

                                                                        Tự tịnh kỳ ư

                                                                        Thị Chư Phật Giáo !

 

                                                                              Dịch Nghĩa :

 

                                                                        Chớ làm các điều ác

                                                                        Vâng làm các việc lành

                                                                        Giữ tâm ư thanh tịnh 

                                                                        Đây là lời Phật dạy !

 

( 諸 惡 莫 作 o 眾 善 奉 行 o 自 淨 其 意 o 是 諸 佛 教 ! )

[ Not To Do Any Evil, To Cultivate Good, To Purify One's Mind, This Is The Teaching Of The Buddhas ! ]

Phật dạy người tu Phật có ba điều tối quan trọng cần phải làm trong cuộc đời tu là :

* Thứ nhất : Không làm các điều ác !

Không làm các điều ác bằng cách : giữ giới luật thanh tịnh.

+ Đối với hàng Phật tử tại gia th́ phải giữ được năm giới : không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.

+ Đối với tu sĩ xuất gia th́ phải giữ 250 giới (Chư-Tăng), 348 giới (Chư-Ni) hoặc tối thiểu 10 giới Sa-Di.

Giữ giới luật tức là đă ngăn chặn được điều ác !

* Thứ hai : Vâng làm các điều lành !

Làm các điều lành bằng cách : bố-thí, cúng-dường Tam-Bảo.

+ Bố thí : bố-thí tài (nội-tài hoặc ngoại-tài); bố-thí pháp; bố-thí vô-úy.

+ Cúng dường Tam-Bảo là cúng dường Phật, Pháp, Tăng.

* Thứ ba : Giữ tâm ư thanh tịnh !

Giữ tâm ư thanh tịnh bằng cách : Niệm-Phật, Tŕ-chú, hoặc Thiền-định.

+ Đối với người tu Mật tông th́ phải tŕ chú cho miên mật !

+ Đối với người tu Thiền th́ phải hành thiền cho tâm được định !

+ Đối với người tu Tịnh độ th́ phải niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn !

Người tu Phật nếu thực hành được ba điều Phật dạy như trên th́ nhất định sẽ được giải thoát luân-hồi sanh-tử ! Nếu có trở lại ở đời sau cũng đều do bổn nguyện muốn khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri-Kiến-Phật mà thôi ! Bởi v́ tâm ư của chúng ta một khi được thanh tịnh th́ tịnh-nghiệp sẽ đưa chúng ta tới cơi tịnh ! Đây là điều chắc chắn không bao giờ sai ! ...

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật !

Lịch sử Phật ghi lại rằng : Đức Phật sau khi ngồi thiền nhập định dưới cội cây Bồ-đề suốt 49 ngày đêm, vào đêm thứ 49, Ngài chứng được Tam-Minh, Lục-Thông và giác ngộ thành Phật ! 
Trong Trung Bộ Kinh (Majjihima Nikàya), Phật nói :
"Ta nhớ lại nhiều kiếp quá khứ mà ta đă trăi qua : một đời, hai đời, ba đời, một trăm, một ngàn, một vạn trong nhiều thành kiếp hoại kiếp của thế giới. Ta biết : ta đă ở nơi kia, tên họ như vậy, gia tộc như vậy, đẳng cấp như vậy, lối sống như vậy. Ta đă trăi qua các sự rủi may của số phận như vậy và mệnh chung như vậy. Sau khi thân hoại, ta lại tái sanh nơi khác, với tên họ như vậy ... và rồi mệnh chung như vậy. Bằng cách này, ta nhớ lại các đời sống quá khứ với nhiều đặc điểm trong nhiều hoàn cảnh. Ta đạt được minh trí này trong canh đầu tiên !" [Chứng Túc-Mạng-Minh]
"Với thiên nhăn thanh tịnh, siêu nhân, vượt tri kiến phàm tục, ta thấy cách chúng hữu t́nh sanh tử như thế nào. Ta thấy rơ cao sang hay hạ liệt, thông minh hay ngu đần, mỗi người đều được tái sanh cơi lành hay cơi dữ tùy theo hạnh nghiệp của ḿnh và ta biết rơ : Những ai đă tạo ác-nghiệp về thân-khẩu-ư, sau khi thân hoại mạng chung sẽ tái sanh vào khổ cảnh, vào đọa xứ, địa ngục. C̣n những ai tạo thiện-nghiệp về thân-khẩu-ư, sau khi thân hoại mạng chung sẽ tái sanh vào cơi lành, sẽ lên Thiên giới !" [Chứng Thiên-Nhăn-Minh]
"Ta hướng tâm đến Lậu-Tận-Trí, đoạn tận lậu hoặc và biết như thật :"Đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt và đây là con đường đi đến khổ diệt" và khi ta nhận chân điều này, trí ta được giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Rồi tri kiến khởi sanh trong ta :"Sanh đă đoạn tận trong ta. Ta đă hoàn thành đời Phạm hạnh, những ǵ cần làm đă được làm xong, ta không c̣n tái sanh nữa !" [Chứng Lậu-Tận-Minh]

Trong các Kinh A-Hàm và Nikaya, Đức Phật thường bảo rằng :"Tu tập theo đạo giải thoát không cần phải là ép xác khổ hạnh để mong cầu một hạnh phúc tương lai. Khi vị khất sĩ ăn ngày một bữa, thực tập thiền tọa, thực tập thiền hành, thực tập Tứ Niệm Xứ, thực tập Tứ Vô Lượng Tâm, thực tập pháp Quán Niệm Hơi Thở, vị khất sĩ ấy tạo hạnh phúc cho chính ḿnh và cho những người xung quanh ngay trong giờ phút hiện tại. Ăn mỗi ngày một bữa có thể giúp cho cơ thể nhẹ nhàng, có thể cho ta nhiều th́ giờ hơn để tu tập, để sống thoải mái và tự do, và để giúp ích cho người khác. Không lập gia đ́nh, không có vợ con không phải là một sự ép xác khổ hạnh mà là để có thể sống tự do và thoải mái, để có th́ giờ tu tập và giúp ích cho kẻ khác ! ... Sống đời sống phạm hạnh, người khất sĩ phải thấy được niềm vui và hạnh phúc trong từng giây phút của cuộc sống hằng ngày. Nếu sống đời sống phạm hạnh mà thấy khổ đau, ép buộc, thiếu tự do, đó là đă không sống đúng theo tinh thần chánh pháp. Nh́n vào một vị khất sĩ sống đời sống phạm hạnh, người ta phải thấy sự có mặt của sự thoải mái, sự thong dong và niềm an lạc. Nếp sống này đem lại hạnh phúc trong hiện tại mà chắc chắn cũng đem lại hạnh phúc trong tương lai ! ... Không phải người xuất gia mới sống được theo nguyên tắc này mà người cư sĩ tại gia cũng có thể theo nguyên tắc ấy của chánh pháp mà làm cho đời sống càng ngày càng có thêm hạnh phúc hiện tại và tương lai. Hạnh phúc trước hết là sự tỉnh thức. Một cái nh́n đầy hiểu biết, một nụ cười bao dung, một câu nói thương yêu, một bữa cơm quây quần trong đầm ấm và tỉnh thức ... đó là hạnh phúc trong hiện tại. Nuôi dưỡng sự tỉnh thức trong hiện tại, ta sẽ tránh không gây khổ đau cho ta và cho những người sống chung quanh ta và bên cạnh ta. Bằng cái nh́n, bằng lời nói, bằng nụ cười, bằng những cử chỉ săn sóc nhỏ, ta tạo ra hạnh phúc cho ta và cho mọi người ngay trong giây phút hiện tại. Hạnh phúc này không cần đến giàu sang và danh vọng !".


+ Phật dạy bảy phương pháp để giữ ǵn cho chánh pháp và giáo đoàn không bị suy thoái ( Bảy Phép Bất Thoái ) : Thứ nhất là các vị nên thường xuyên gặp mặt nhau trong những buổi họp đông đủ để học hỏi và luận bàn về chánh pháp. Thứ hai là các vị đến với nhau trong tinh thần ḥa hợp và đoàn kết, và chia tay nhau cũng trong tinh thần ḥa hợp và đoàn kết. Thứ ba là cùng tôn trọng và sống theo giới luật và pháp chế một khi giới luật và pháp chế ấy đă được ban hành. Thứ tư là biết tôn trọng và vâng lời các bậc trưởng lăo có đạo đức và kinh nghiệm trong giáo đoàn. Thứ năm là sống một nếp sống thanh đạm và giản dị, đừng để bị lôi cuốn vào tham dục. Thứ sáu là biết quư đời sống tĩnh mặc. Thứ bảy là biết an trú trong chánh niệm để thực hiện an lạc và giải thoát, làm chỗ nương tựa cho các bạn đồng tu. Phật bảo thêm rằng :"Này các Tỳ-Kheo, chừng nào mà các ông c̣n thực hành được "Bảy Phép Bất Thoái" này th́ đạo pháp c̣n hưng thịnh và giáo đoàn không bị suy thoái !".

Một hôm, trên đường hành đạo đến Kosambi (Hướng tây bắc của Ấn Độ), Phật nh́n thấy một khúc gỗ lớn đang trôi trên sông. Khi đó Phật nói :"Này các Tỳ-Kheo, các ông có thấy khúc gỗ đang trôi trên sông kia không ? Khúc gỗ kia nếu không bị vướng mắc vào hai bờ, nếu không ch́m đắm nửa chừng, nếu không vướng vào một cồn cát, nếu không bị người ta vớt lên, nếu không bị cuốn theo ḍng nước xoáy, nếu không bị mục nát từ bên trong mục nát ra, th́ sẽ cứ trôi như thế cho đến ngày ra được biển cả ! ... Này các Tỳ-Kheo, trên con đường tu đạo cũng thế, nếu các ông không bị vướng mắc vào một trong các trở ngại ta vừa nói tới ở trên th́ chắc chắn các ông sẽ đi đến quả vị giác ngộ giải thoát, như khúc gỗ kia trôi ra được biển cả vậy !" ... Khi ấy, có một vị Tỳ-Kheo hỏi Phật :"Bạch đức Thế Tôn ! Xin Thế Tôn nói rơ cho chúng con được hiểu : thế nào là bị vướng mắc vào hai bờ; ch́m đắm nửa chừng; vướng vào một cồn cát; bị người ta vớt lên; bị cuốn theo ḍng nước xoáy; bị mục nát từ bên trong mục nát ra ?". 
Đức Phật giải thích :
+ Bị vướng mắc vào hai bờ tức là sáu căn dính mắc với sáu trần, kẹt dính vào những cảm thọ, đánh mất chánh niệm tỉnh thức.
+ Ch́m đắm nửa chừng là bị những sợi dây tham dục và mê đắm buộc lại, không c̣n đủ sức để đi tới, phải bỏ dỡ nửa chừng sự nghiệp tu học của ḿnh.
+ Vướng vào một cồn cát là vướng vào sự phục vụ cái ngă của ḿnh, suốt đời chỉ nhắm tới danh và lợi mà quên đi mục đích tối hậu là giải thoát.
+ Bị người ta vớt lên nghĩa là măi mê cái vui phàm tục, bị người xấu lôi kéo, bỏ nhăng công việc tu hành.
+ Bị cuốn theo ḍng nước xoáy là ch́m đắm trong vũng tù ngũ dục : tài, sắc, danh, thực, thùy.
+ Bị mục nát từ bên trong mục nát ra là sống đời sống đạo đức giả dối, lường gạt quần chúng, lợi dụng đạo pháp để thỏa măn dục vọng cá nhân !
[ Đường Xưa Mây Trắng - Chương 63 : Đường Về Biển Cả ]

+ Phật dạy cách thực tập quán chiếu thân và tâm trong lúc bệnh và lúc lâm chung :
1. Quán chiếu sáu căn này không phải là tôi. ( Sáu căn là : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư )
2. Quán chiếu sáu trần cũng không phải là tôi. ( Sàu trần là : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp )
3. Quán chiếu sáu thức cũng không phải là tôi. ( Sáu thức là : cái thấy, cái nghe, tri giác về mùi hương, vị giác, xúc giác, ư thức )
4. Quán chiếu thất đại cũng không phải là tôi. ( Thất đại là : đất, nước, gió, lửa, không, kiến, thức )
5. Quán chiếu tôi không sinh cũng không diệt. Tôi từ chân-như tới, và khi mất thân này tôi trở về với chân-như ! 
[ Đường Xưa Mây Trắng - Chương 75 : Những Giọt Nước Mắt Sung Sướng Của Sudata - Tu-Đạt-Đa (Trưởng Giả Cấp Cô Độc) ]

Phật dạy :"Người thật sự biết sống một ḿnh là người biết an trú trong chánh niệm, an trú trong hiện tại. Người ấy ư thức được những ǵ đang xảy ra trong giây phút hiện tại, những ǵ đang xảy ra trong cơ thể, trong cảm giác, trong tâm ư và nơi những đối tượng của tâm ư. Người ấy biết quán chiếu sự sống trong giờ phút hiện tại, không t́m về quá khứ, không tưởng đến tương lai; v́ quá khứ th́ không c̣n mà tương lai th́ chưa tới. Sự sống chỉ có mặt trong giờ phút hiện tại. Nếu ta bỏ giờ phút hiện tại, ta đă đánh mất sự sống. Chánh niệm sẽ giúp ta trở về hiện tại, tiếp xúc với hiện tại và quán chiếu sự sống trong hiện tại ! ... Người biết sống một ḿnh dù ngồi giữa đám đông cũng an trú trong hiện tại, an trú trong chánh niệm. C̣n người ngồi một ḿnh trong rừng sâu nếu không có chánh niệm, bị những con ma quá khứ và tương lai lôi cuốn ám ảnh th́ người ấy không phải là người biết sống một ḿnh !"
[ Phật thuyết trong Kinh Người Biết Sống Một Ḿnh - Bhaddekaratta ]

Phật dạy :"Đừng vội tin vào một điều ǵ dù điều đó là điều mà người ta thường nói đến luôn, dù điều đó có trong kinh điển, dù điều đó là do một bậc thầy mà thiên hạ tôn sùng nói ra. Các ông chỉ nên chấp nhận và tin vào những điều mà các ông thấy hợp với lư trí của các ông, những điều được các bậc hiền nhân đồng ư, những điều mà nếu đem ra thực hành th́ đưa tới những kết quả tốt đẹp cho đời sống. C̣n những điều không hợp với lư trí, những điều được các bậc hiền nhân chê trách, những điều mà nếu đem ra thực hành th́ đưa tới khổ đau và đỗ vỡ, những điều đó các ông nên bác bỏ, đừng tin và đừng chấp nhận ! ... Thí dụ có một người để tham vọng, giận hờn, si mê chế ngự tâm ḿnh, người đó sống vui hay khổ ? ... C̣n một người sống theo hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả, biết đem lại hạnh phúc cho kẻ khác, biết làm giảm bớt nỗi khổ của người đời, biết vui theo niềm vui của kẻ khác, biết đối xử với kẻ khác một cách không kỳ thị, không oán trách th́ những hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả sẽ làm cho người ấy vui hay khổ ?" [ Phật thuyết pháp tại Kesaputta - Đường Xưa Mây Trắng - Chương 62 : Đừng Vội Tin Cũng Đừng Vội Bài Bác ]

Phật dạy :"Hận thù và ganh ghét là những chất độc làm ung thối tâm hồn. Sau khi làm ung thối tâm hồn, những chất độc ấy c̣n phá hoại thân thể. V́ vậy, này các Tỳ-Kheo, các ông đừng để cho những chất độc ấy thấm vào thân tâm của các ông !" [ Lời Phật dạy từ sự việc thầy Kokalika đặt điều nói xấu Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên dẫn đến hậu quả bị nổi mụt ghẻ khắp người đau đớn cho đến chết ] [ Đường Xưa Mây Trắng - Chương 62 : Đừng Vội Tin Cũng Đừng Vội Bài Bác ]

Trong Tương Ưng Bộ Kinh, Đức Phật thuyết rằng :"Này các Tỳ-Kheo, có con đường đưa đến chứng đắc Niết-Bàn, đó là Bát Chánh Đạo ! Nay ta sẽ phân tích cho các ông hiểu, các ông hăy lắng nghe cho rơ ! ...
Này các Tỳ-Kheo ! Thế nào là Bát Chánh Đạo ? Đó là Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.
Này các Tỳ-Kheo, thế nào là Chánh Tri Kiến ? Chánh Tri Kiến là nhận thức chân chánh. Tri kiến về khổ, tri kiến về nguồn gốc của khổ, tri kiến về diệt khổ, tri kiến về con đường đưa đến diệt khổ.
Này các Tỳ-Kheo, thế nào là Chánh Tư Duy ? Chánh Tư Duy là tư duy chân chánh. Tư duy về xuất ly, tư duy về vô sân, tư duy về vô hại.
Này các Tỳ-Kheo, thế nào là Chánh Ngữ ? Chánh Ngữ là ngôn ngữ chân chánh. Từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời thêu dệt.
Này các Tỳ-Kheo, thế nào là Chánh Nghiệp ? Chánh Nghiệp là hành động chân chánh. Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà dâm.
Này các Tỳ-Kheo, thế nào là Chánh Mạng ? Chánh Mạng là sinh kế chân chánh. Từ bỏ lối sống bất chính, sinh sống bằng nghề nghiệp lương thiện.
Này các Tỳ-Kheo, thế nào là Chánh Tinh Tấn ? Chánh Tinh Tấn là chuyên cần chân chánh. Đoạn trừ những bất thiện pháp đă sinh khởi. Duy tŕ những thiện pháp để chúng không bị suy tàn, luôn tăng trưởng và phát triển viên măn.
Này các Tỳ-Kheo, thế nào là Chánh Niệm ? Chánh Niệm là niệm lực chân chánh. Vị đệ tử luôn luôn tỉnh giác, nghĩ tưởng những điều chân chánh, loại bỏ tham ưu đối với cuộc đời ! (Quán thân trên thân, quán cảm thọ trên các cảm thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên các pháp).
Này các Tỳ-Kheo, thế nào là Chánh Định ? Chánh Định là định lực chân chánh. Vị đệ tử xa ĺa các dục lạc, xa ĺa các pháp bất thiện, chứng quả Sơ Thiền (Ly Sanh Hỷ Lạc), Nhị Thiền (Định Sanh Hỷ Lạc), Tam Thiền (Ly Hỷ Diệu Lạc), Tứ Thiền (Xả Niệm Thanh Tịnh).
Chỉ có con đường Bát Chánh Đạo mới đem đến trí tuệ, giải thoát và an lạc cho ta mà thôi !"
[ Tương Ưng Bộ Kinh - Samyutta Nikaya - Phẩm Vô Minh - VIII. Phân Tích ]

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Phật kể lại rằng khi Ngài chưa giác ngộ thành Phật, Ngài suy nghĩ như sau :"Cái ǵ là vị ngọt của thế gian, cái ǵ là sự nguy hại của thế gian, cái ǵ là sự vượt thoát thế gian ?"... Rồi ư tưởng này khởi lên trong tâm trí Ngài :"Bất cứ những ǵ mang lại vui thích, khoái lạc ở thế gian là vị ngọt của thế gian; thế gian là vô thường, bị ràng buộc với khổ đau và phải chịu biến hoại, đó là sự nguy hại của thế gian; đoạn trừ, từ bỏ mọi ham muốn dục vọng của thế gian chính là sự vượt thoát thế gian !"... Bao lâu Ta chưa trực tiếp biết được những điều này th́ Ta chưa tuyên bố đă giác tri được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chỉ khi nào biết được như thật tất cả các pháp này, Ta mới tuyên bố là đă giác tri được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong thế giới với Chư Thiên, Ác Ma và Phạm Thiên, trong quần chúng này với Sa Môn và Bà La Môn, Chư Thiên và Loài Người ! ... Tri kiến này đă khởi lên trong Ta :"Tâm giải thoát của Ta là bất động; đây là đời sống cuối cùng; nay sẽ không c̣n tái sanh nữa ( tức nhập Niết Bàn ) !" [ Tăng Chi Bộ Kinh - Anguttara Nikàya - Phẩm Chánh Giác ]

Trong Trung Bộ Kinh, Đức Phật nói với Ngài Magandiya rằng :"Từ khi Ta hiểu được như thật nguồn gốc sinh khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự vượt thoát các dục lạc giác quan; Ta từ bỏ ḷng khao khát các dục lạc, Ta đoạn trừ cơn sốt dục lạc, và Ta an trú với nội tâm thanh tịnh không c̣n khao khát, ham thích dục lạc nữa ! V́ sao vậy ? Bởi v́, này Magandiya, có một niềm hỷ lạc xa ĺa các dục lạc giác quan, xa ĺa các pháp bất thiện, vượt qua cả những hỷ lạc siêu phàm. Từ khi Ta an trú trong trong niềm hỷ lạc ấy, Ta không c̣n ao ước những ǵ thấp kém hơn và cũng không ham thích chúng !" [ Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikàya - Kinh Số 75 : Magandiya ]

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Phật bảo với trưởng giả Cấp Cô Độc rằng :"Thuở xưa có một vị Bà La Môn tên là Velama, ông này đem vàng, bạc, của cải, voi ngựa của ḿnh ra bố thí nhiều vô số kể, có thể nói quả vị bố thí của ông rộng lớn vô cùng. Nhưng nếu có người bố thí cho một vị có Chánh-Kiến th́ quả vị bố thí này c̣n rộng lớn hơn. Lại nữa, nếu có người bố thí cho một trăm vị có Chánh-Kiến, quả vị bố thí không bằng người bố thí cho một vị chứng quả Nhất-Lai. Nếu có người bố thí cho một trăm vị chứng quả Nhất-Lai, quả vị bố thí không bằng người bố thí cho một vị chứng quả Bất-Lai. Nếu có người bố thí cho một trăm vị chứng quả Bất-Lai, quả vị bố thí không bằng người bố thí cho một vị chứng quả A-La-Hán. Nếu có người bố thí cho một trăm vị chứng quả A-La-Hán, quả vị bố thí không bằng người bố thí cho một vị Độc Giác Phật. Bố thí cho một trăm vị Độc Giác Phật, quả vị bố thí không bằng người bố thí cho Đức Phật, bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Quả vị bố thí này c̣n rộng lớn hơn nếu người ấy bố thí cho Tăng đoàn khắp bốn phương ... Quả vị này c̣n rộng lớn hơn nếu người ấy có ḷng tịnh tín, quy y Tam-Bảo và giữ ǵn năm giới ... Quả vị c̣n rộng lớn hơn nữa nếu có người tu tập tâm từ chỉ trong khoảnh khắc hoặc tu tập phát triển nhận thức vô-thường chỉ bằng thời gian búng ngón tay !" [ Tăng Chi Bộ Kinh - Anguttara Nikàya ]

Trong Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya), Đức Phật dạy :"Này các Tỳ-Khưu, ai có cha mẹ chưa có ḷng tin Tam Bảo th́ phải khuyến khích, hướng dẫn cha mẹ tin vào Tam Bảo; đối với cha mẹ theo ác giới, th́ phải khuyến khích, hướng dẫn cha mẹ vào thiện giới; đối với cha mẹ có ḷng san tham th́ khuyến khích, hướng dẫn cha mẹ bố thí; đối với cha mẹ theo ác trí tuệ, th́ phải khuyến khích, hướng dẫn cha mẹ vào trí tuệ. Được như vậy, này các Tỳ-Khưu, các ông đă làm đủ và đă trả ơn đủ cho cha mẹ !"

Một thời, Thế Tôn ngụ ở thành Xá Vệ, Kỳ Đà Lâm, Cấp Cô Độc Viên. Khi ấy, có một người Bà-La-Môn tên là Subha tới đảnh lễ Phật và thưa rằng :"Bạch Thế Tôn ! Do nhân duyên ǵ mà thế gian có kẻ cao sang, người hạ liệt ? Người trường thọ, kẻ yểu mạng ? Người nhiều bệnh, kẻ ít bệnh ? Người xấu xí, kẻ xinh đẹp ? Người không có quyền lực, kẻ có nhiều quyền lực ? Người nghèo khó, kẻ giàu sang ? Người sinh ra trong gia đ́nh cao quư, kẻ sinh vào nơi hạ tiện ? Người thông minh, kẻ ngu dốt ?"
Thế Tôn đáp rằng :"Sở dĩ có sự sai biệt đó là từ nơi nghiệp mà ra. Chúng sanh là chủ nhân của nghiệp mà cũng là kẻ thừa kế nghiệp, ràng buộc với nghiệp !
Người sát sanh, hại vật khi thân hoại mạng chung sẽ tái sanh vào cơi khốn khổ, cơi dữ, đọa xứ, địa ngục. Nếu không bị đọa vào những cơi đó mà trở lại làm người th́ nơi nào người ấy sinh ra, người ấy sẽ bị yểu mạng !
Người không sát sanh, không hại vật khi thân hoại mạng chung sẽ tái sanh vào cơi tốt đẹp, vào Thiên giới. Nếu không tái sanh vào cơi tốt đẹp, Thiên giới mà trở lại làm người th́ nơi nào người ấy sinh ra, người ấy được trường thọ !
Tương tự như vậy :
+ Người nào làm tổn hại chúng sanh, tức sẽ bị bệnh hoạn; ngược lại người nào không làm tổn hại chúng sanh sẽ luôn được khỏe mạnh !
+ Người nào hay sân hận, nóng giận sẽ đưa đến dung sắc xấu xí; ngược lại người nào không sân hận, nóng giận sẽ đưa đến dung sắc xinh đẹp !
+ Người nào ganh ghét, đố kỵ sự thành đạt của người khác th́ sẽ không có quyền lực; ngược lại người nào không ganh ghét, đố kỵ sự thành đạt của người khác sẽ có đầy quyền lực !
+ Người không bố thí, cúng dường Tam-Bảo sẽ bị nghèo khó; ngược lại người bố thí, cúng dường Tam-Bảo sẽ được giàu có !
+ Người kiêu căng bướng bỉnh sẽ sinh vào gia đ́nh hạ liệt; ngược lại người không kiêu căng bướng bỉnh sẽ được sinh vào gia đ́nh cao sang !
+ Người không chịu học hỏi giáo lư để làm người thiện lành là kẻ ngu dốt; ngược lại người luôn chịu học hỏi giáo lư để làm người thiện lành là người có trí tuệ !" ...
Sau khi nghe Thế Tôn nói như vậy, vị Bà-La-Môn Subha nói :"Thật vi diệu thay, vi diệu thay ! Thế Tôn đă làm sáng tỏ Chánh pháp bằng nhiều phương tiện. Ngài là người đă dựng đứng tất cả những ǵ đỗ vỡ, phơi bày tất cả những ǵ bị che dấu, chỉ đường cho kẻ bị lạc đường, giơ cao ngọn đèn trong bóng tối để cho người có mắt được thấy sắc ! Nay con xin quy y theo Ngài, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử tại gia, từ nay cho đến mạng chung, chúng con xin trọn đời quy ngưỡng !" [ Trung Bộ Kinh - Majjhima Nikàya - Kinh Số 135 : Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt ]

Kinh Lăng Nghiêm, trong phần biện định về Ngũ Ấm Ma, sau khi nghe Đức Phật nói các danh hiệu của Kinh, Ngài A-Nan liền hỏi về nguyên nhân của các nẻo luân hồi, trong đó có sanh lên Thiên giới. Đức Phật dạy rằng :"Thuần tưởng tức phi, tất sanh thiên thượng. Nhược phi tâm trung kiêm phước kiêm huệ, cập dữ tịnh nguyện, tự nhiên tâm khai, kiến thập phương Phật, nhất thiết Tịnh Độ, tùy nguyện văng sanh !". - Dịch Nghĩa :"Người lúc c̣n sống quen tu tập Tưởng thắng diệu, do thuần tưởng thắng diệu nên khi thọ mạng chung có thể bay lên, sanh lên cơi Trời. Nếu trong cái tâm thuần tưởng bay lên ấy lúc b́nh thời có kiêm tu phước, tu huệ ( chẳng hạn như cúng Phật là phước nghiệp, nghe pháp là huệ nghiệp ) cùng với sức Tịnh nguyện ( nguyện học theo Phật, nguyện cầu văng sanh về cơi Phật được thấy Phật ) tự nhiên tâm địa khai thông, thấy mười phương Phật, hết thảy Tịnh Độ ( như cơi Cực Lạc của Phật A Di Đà, cơi Lưu Ly của Phật Dược Sư ... ) mười phương đều hiện, hơn - kém rành rành. V́ thế được tùy nguyện văng sanh !". [ Giải Thích : Tưởng là lắng ḷng quán tưởng, Thuần tưởng có là do thiện nghiệp từ trong tâm quán tưởng mà cảm thành ! ... Phàm những người b́nh thường không tu tập, khi thọ mạng sắp hết, thần thức hôn ám, trông khắp mười phương giống như một vùng tối, mờ mờ mịt mịt, chẳng biết đi về đâu, khổ sở vô cùng tận ! ]

"Những tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn sống xả ly các dục về thân, những tham đắm dục lạc như dục tham, dục ái, dục khát vọng, nhiệt năo đă hoàn toàn buông bỏ và đoạn trừ trong nội tâm. Những vị đó dù cho có cảm thọ hay không cảm thọ những sự khổ, đau đớn, đều có thể chứng được tri kiến vô thượng Chánh Đẳng Giác !" [ Hợp Tuyển Lời Phật Dạy Từ Kinh Tạng Pali ]

Trong Kinh Kim Cang, Tôn giả Tu-Bồ-Đề hỏi Đức Phật rằng :"Bạch Thế Tôn ! Chúng sanh đời sau nghe đến kinh này, chẳng biết họ có tin không ?". Đức Phật bảo rằng :"Tu-Bồ-Đề ! Ông chớ nên lo như vậy ! Không những hiện tại mà cả vị lai đều có người nghe và tin được kinh này. Sau khi Như-Lai diệt-độ, năm trăm năm sau, nếu có người xuất gia hoặc tại gia nghe đến kinh này, mà sanh ḷng tin thọ, th́ biết người này đă trồng căn lành không phải chỉ một đời Phật, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời Phật, mà đă nhiều kiếp tu hành từ vô lượng vô số Chư Phật đến nay !"
[ Kinh này là Kinh "Kim Cang Bát Nhă", tức là nói về "Trí-Huệ-Phật". Có Trí-Huệ-Phật này mới phá hết vô-minh phiền năo, mới minh tâm kiến tánh thành Phật, nên nói :"Kinh này sanh ra Phật !". Sau khi thành Phật rồi, cũng nhờ có Trí-Huệ Bát-Nhă mới nói ra giáo pháp, nên nói :"Kinh này sanh ra Pháp !". V́ vậy, Đức Phật nói :"Tất cả Phật và Pháp đều từ "Kinh Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật" này mà có !" ]

Trong quyển "Nguồn Thiền" ( Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập ) của Thiền Sư Khuê Phong Tông Mật, có nói :
"Tất cả chúng sanh đều có chân tâm không tịch, từ vô thủy đến nay tánh nó tự thanh tịnh, tinh lanh không mờ, rơ ràng thường biết, đến tột mé vị lai vẫn thường c̣n không diệt, gọi là Phật-tánh, cũng gọi là Như-Lai tàng, cũng gọi là tâm-địa. Từ vô thủy bị vọng tưởng che lấp nó không tự chứng được, đắm mê sanh tử, Đức Phật thương sót mới hiện ra đời, v́ đó nói pháp sanh tử ... tất cả đều không, chỉ bày tâm này toàn đồng chư Phật !".

Trong Kinh Pháp Hoa - Phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Kư Thứ Tám, Đức Phật cũng nói :"Chúng sanh có cái thường hằng luôn hiện hữu nhưng bỏ quên không chịu nhận. Giống như chàng cùng tử lang thang, thiếu ăn thiếu mặc chợt gặp người bạn thân. Người bạn thương t́nh mới tặng cho viên ngọc quư cột vào trong chéo áo, dặn sau này lấy ra dùng sẽ hết nghèo khó. Nhưng anh này v́ say nên không nhớ ǵ cả, đành làm kẻ cùng tử lang thang rày đây mai đó. Một ngày nọ, người bạn cũ gặp lại thấy anh vẫn nghèo giống như xưa, v́ có của mà không biết, không chịu lấy ra mà dùng !".

Chúng ta cũng vậy, từ vô thủy tới nay trôi lăn trong ba cơi sáu đường, trầm luân sanh tử thống khổ không sao kể xiết. Những tăm tối mờ mịt điên đảo khỏa lấp tất cả những thứ sáng suốt của chúng ta. Giờ đây muốn nhận lại phải có thời gian tu tập mới có thể tháo gỡ những thứ tăm tối che lấp cái tâm mê muội của chúng ta. Để làm được việc đó đ̣i hỏi những hành giả tu Phật phải kiên tŕ, nhẫn nại và phải có quyết tâm mới thành tựu sở nguyện của ḿnh. Tùy theo nhân duyên, người nguyện ở chùa, ở thiền viện, tịnh xá, cốc lá, hoặc đi hành cước ... Dù trụ nơi nào th́ ư chỉ của Thầy tổ cũng phải giữ ǵn, nhiệm vụ đối với Phật pháp cũng phải làm tṛn, phải diệt trừ phiền năo vướng mắc ở trong tâm, để đạt đến Niết-bàn giải thoát an vui tự tại !

Trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật cũng bảo rằng :"Các Đức Phật Thế Tôn v́ một đại sự nhân duyên mà hiện ra nơi đời, các Đức Phật Thế Tôn v́ muốn khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri-Kiến-Phật mà hiện ra nơi đời !'. Tri-Kiến-Phật đó chính là thấy biết giác ngộ giải thoát của chúng ta, ai ai cũng đều có cả nhưng v́ bị vô-minh, vọng tưởng mê lầm che lấp nên chúng ta không thể nhận biết !

Chúng sanh mê, bỏ quên tánh giác sẵn có nơi ḿnh nên tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử, c̣n tánh giác th́ lúc nào cũng sẵn có, không hề thiếu vắng mà tại do ḿnh không chịu nhận ra. Phật v́ thương sót chúng sanh hiện ra nơi đời, 49 năm hoằng dương chánh pháp cũng chỉ v́ muốn khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri-Kiến-Phật, tức là tánh giác này vậy !

Trong Kinh Hoa Nghiêm - Phẩm Xuất Hiện, Đức Phật cũng nói :"Phật tử không có chúng sanh nào chẳng có đầy đủ đức tướng, trí tuệ Như-Lai, đều do vọng tưởng chấp trước mà không chứng được. Nếu ĺa vọng tưởng th́ Nhất thiết trí, Tự nhiên trí, Vô ngại trí liền được hiện tiền !". Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng, trí tuệ Như-Lai, nhưng v́ bị vô-minh, vọng tưởng mê lầm che lấp nên không thấy, không nghe, không biết. Nếu ĺa được vọng tưởng th́ sẽ chứng đắc trí tuệ giống như Phật vậy !

"Chỗ cao sâu trong đạo pháp, người thời nay nếu trọn chưa hề tu tập sẽ không thể thấu triệt được ngay; nhưng Phật pháp vốn có pháp môn đại phương tiện khiến cho kẻ không có sức liền đạt được ngay chỗ cao sâu : Tu Tŕ Pháp Môn Tịnh Độ ! Tức phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, chớ làm các điều ác, vâng làm các điều lành, thật v́ sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu, tŕ danh hiệu Phật ! (Đôn luân tận phận, nhàn tà tồn thành, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, chân vị sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dĩ thâm tín nguyện, tŕ danh hiệu Phật !). Nếu có thể dùng những điều như vậy để tu th́ sẽ có thể cậy vào Từ lực của Phật đới nghiệp văng sanh. Nếu được văng sanh th́ lợi ích đạt được đem so với lợi ích của những người tu các pháp môn tột cao tột sâu khác cũng trọn chẳng thua kém ǵ, mà c̣n vượt trỗi trăm ngàn vạn ức lần !" ...
"Tịnh độ là pháp môn đặc biệt trong Phật pháp, là đạo để hạ phàm lẫn thượng thánh cùng tu. Chúng sanh đời Mạt chẳng biết chẳng tu pháp này th́ chỉ gieo được thiện căn trong đời vị lai, trọn khó thể thoát luân hồi trong đời này ! Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn thẳng tắt nhất, viên đốn nhất, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, huyền diệu nhất để làm cho khắp hết thảy Thánh - Phàm cùng được văng sanh Tây phương, liễu sanh thoát tử ngay trong đời này !" ...
"Đức Phật nói hết thảy pháp môn tuy cao sâu huyền diệu, viên đốn thẳng chóng, nhưng đều phải đoạn sạch Phiền Hoặc mới có thể liễu sanh thoát tử. Nếu đoạn chưa sạch th́ vẫn chẳng thể liễu được; huống hồ kẻ hoàn toàn chưa đoạn được ư ? Chỉ có pháp môn Niệm Phật cậy vào Phật từ lực, nếu có ḷng tin chân thành, nguyện thiết tha, chí thành niệm Phật, không một ai chẳng được văng sanh. Nhưng kẻ niệm Phật th́ nhiều, người văng sanh lại ít là v́ chỉ mong cầu phước báo Trời - Người trong đời sau, hoặc chẳng sanh ḷng hổ thẹn, thường làm chuyện bất hiếu, chẳng từ, bất trung, bất nghĩa ... là v́ tâm trái nghịch với Phật mà ra. Lỗi ở nơi chính ḿnh, nào phải Phật chẳng từ bi ! ... Nếu trước khi chưa phát tâm niệm Phật từng làm điều ác, nay niệm Phật rồi hăy nên sanh ḷng hổ thẹn, thống thiết sửa đổi lỗi trước th́ cũng có thể quyết định văng sanh. Phật coi chúng sanh như con ruột, nhưng con chẳng nghe lời cha mẹ th́ cha mẹ cũng chẳng biết làm sao giúp được ! Chúng sanh nếu chịu sửa lỗi hướng thiện niệm Phật, chắc chắn lúc lâm chung sẽ được Phật rũ ḷng đích thân tiếp dẫn !" ...
"Người đời nay khi cha mẹ, sư trưởng qua đời liền cầu người có tiếng tăm viết bài tán tụng, Quang thật chẳng muốn làm vậy chút nào ! Khi Quang chết rồi, hăy nên cực lực đề xướng pháp môn Tịnh Độ, khiến cho người người thấy nghe "sống th́ hiền thiện, mất th́ sanh về Cực-Lạc". Điều này chỉ có công chẳng có lỗi ! Nếu lầm lẫn viết bài ca ngợi, tán thán Quang tức là đă hủy nhục Quang trước mặt mọi người vậy. Ngàn vạn phần xin đừng tập theo thói thường t́nh ấy !" [ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên ]

"Nếu ai chân thật muốn tu hành th́ trước nhất không được lười biếng, chuyện ǵ cũng phải nhẫn nhịn, ngay cả điều không thể nhẫn cũng phải nhẫn, việc ǵ không chịu nổi cũng phải chịu nổi. Nhất là lúc đi tham học, học tập ở các nơi khác, các vị không thể hở mỗi chút là giận hờn hoặc cho đây không đúng, kia không phải. Trên thế gian này không có việc ǵ hoàn toàn theo ư ḿnh hay đều là làm cho ḿnh vừa ḷng hết đâu ! Các vị phải nghĩ lui một bước, nếu như có thể nhẫn nhịn, chịu đựng nổi th́ việc ǵ cũng sẽ qua, không có chi là phiền năo cả !" [ Ḥa Thượng Tuyên Hóa - Cuộc Đời Và Đạo Nghiệp Giai Đoạn Ở Trung Quốc - NXB Hồng Đức 2016 ]

“Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói Đức Phật A-Di-Đà, rồi chấp tŕ danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày một ḷng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung, Đức Phật A-Di-Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được văng sanh về cơi nước Cực-Lạc của Đức Phật A-Di-Đà !” [Đức Phật thuyết trong Kinh A-Di-Đà]

“Nếu có chúng sanh muốn sanh về cơi nước Cực-Lạc của Đức Phật A-Di-Đà th́ phải hết ḷng tŕ Kinh giữ giới, chuyên làm điều lành, nghĩa là không giết hại sanh vật, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không tham, sân, si; ngày đêm nhớ nghĩ đến Đức Phật A-Di-Đà ở thế giới Cực-Lạc, chí tâm quy-y đảnh lễ cúng dường; Người ấy khi mạng chung không kinh sợ, tâm không rối loạn, liền được văng sanh về cơi Cực-Lạc !” [Đức Phật thuyết trong Kinh Vô Lượng Thọ]

[ Niệm Phật - Điều quan trọng trước nhất phải hiểu là để giữ tâm được an định ! Kế đến, niệm Phật là để nhớ tới ông Phật của ḿnh, đó là Phật-tánh sáng suốt, giác-ngộ giải-thoát ! Sau cùng, niệm Phật là để nguyện cầu được văng sanh về cơi Tây-Phương Cực-Lạc của Đức Phật A-Di-Đà ! Người nào nếu hiểu được điều này th́ mới thấy cái hay, lợi ích của việc niệm Phật ! Nam Mô A Di Đà Phật !]

"Nếu Có Vô Lượng Trăm Ngh́n Muôn Ức Chúng Sanh Chịu Các Khổ Năo, Nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Này Một Ḷng Xưng Danh; Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Tức Thời Xem Xét Tiếng Tăm Kia, Đều Được Giải Thoát !" [Phật Thuyết Trong Kinh Pháp Hoa - Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn]

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Quán Âm nói :"Ta đắc Phật tâm, chứng nơi rốt ráo, có thể dùng trân bảo đủ mọi cách cúng dường mười phương Như-Lai, cùng với pháp giới lục đạo chúng sanh, cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu tam-muội được tam-muội, cầu trường thọ được trường thọ, như thế cho đến cầu đại Niết-Bàn đắc đại Niết-Bàn !" ...

Bồ-Tát Quán-Thế-Âm trong vô lượng kiếp về thời quá khứ đă thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh. Sau khi thành Phật, Ngài v́ không quên chúng sanh nên mới trở lại thế giới này, ẩn giấu thân Phật mà hiện thân Bồ-Tát để cứu giúp chúng sanh, đó gọi là "ẩn lớn hiện nhỏ" ! ... Ngài từ thân Phật lại "Quay ngược thuyền Từ", cũng như người đời nói "Quay xe trở lại", mục đích là để cứu vớt chúng ta, những chúng sanh tràn đầy đau khổ. Cho nên Bồ-Tát Quán-Thế-Âm tuy bề ngoài hiện thân Bồ-Tát, kỳ thật bên trong ngầm chứa hạnh Phật, thực hành hạnh nguyện của chư Phật ! [Hành Như-Lai Xứ, Tác Như-Lai Sự !]

 

"Phật, Bồ-Tát thị hiện ở trên thế gian luôn dùng sức trí huệ tùy ḷng chúng sanh mà làm lợi ích. Có thể ở trong biển phiền năo đại khổ cứu vớt chúng sanh khiến cho họ được thoát ĺa, khuyên họ niệm Phật văng sanh về thế giới Cực-Lạc của Phật A-Di-Đà. Đây mới chính là hạnh nguyện chân thật của Phật, Bồ-Tát thị hiện ở trên thế gian để cứu đời !" [ Đức Phật Thuyết Trong Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện ]

 

Phổ Hiền Thập Nguyện là mười hạnh nguyện lớn của Bồ Tát Phổ Hiền mà những người tu Phật (nhất là tu theo Đại thừa) cần phải phát nguyện noi theo ! Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, Phật nói :"Nếu ai tụng nguyện này, người ấy lúc lâm chung, trong sát-na cuối cùng, hết thảy các căn thảy đều tán hoại, hết thảy thân thuộc thảy đều ĺa bỏ ... chẳng c̣n có ǵ theo bên ḿnh nữa ! Chỉ có nguyện vương này chẳng thể ĺa bỏ, trong hết thảy thời luôn dẫn đường đằng trước. Trong một sát-na liền văng sanh Cực Lạc thế giới. Đến nơi rồi liền thấy Phật A Di Đà ... Người ấy tự thấy ḿnh sanh trong hoa sen, được Phật thọ kư. Được thọ kư xong, trải vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, khắp trong bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới ở mười phương, dùng sức trí huệ tùy ḷng chúng sanh mà làm lợi ích. Có thể ở trong biển phiền năo đại khổ cứu vớt chúng sanh khiến cho họ được thoát ĺa, đều được văng sanh thế giới Cưc Lạc của Phật A Di Đà !".
 

"Là Đ Tử Phật Tu Hạnh Hiếu Thuận, Trong Mỗi Niệm Phải Thường Nhớ Tưởng Cha Mẹ Hiện Tại, Nhẫn Đến Cha Mẹ Trong Bảy Đời. Mỗi Năm Đến Ngày Rằm Tháng Bảy, Do Ḷng Hiếu Từ Thường Nhớ Tưởng Đến Cha Mẹ Đă Sanh Ḿnh, V́ Cha Mẹ Sắm Bồn Vu Lan Cúng Dường Đức Phật Và Chúng Tăng, Để Đền Đáp Công Ơn Từ Ái Nuôi Nấng Của Cha Mẹ. Nếu Là Đệ Tử Của Đức Phật, Tất Cả Phải Nên Phụng Tŕ Phương Pháp Báo Hiếu Này !" [ Đức Phật Thuyết Trong Kinh Vu Lan Bồn ]

 

"Tu phước không tu huệ, chẳng phải nhân giải thoát. Tu cả phước lẫn huệ, cách giải thoát tối thượng. Chúng sinh vốn là Phật, bởi v́ niệm điên đảo, măi đọa lạc khổ đau. Cửa chính của tu huệ, là nhất tâm niệm Phật, đạt đến tâm thanh tịnh, th́ Cực-Lạc hiện bày !"... "Một ngày, một giờ, một tháng, một năm, thời gian vụt qua, thân tợ bọt nước, tâm phàm chưa trừ, chưa chứng Thánh quả, thật đáng kinh sợ, thật đáng thương tiếc !". [ Liên Tŕ Đại Sư ]

 

"Người học Phật và tu Phật nhất định phải tin Phật ! Đó là điều kiện tiên quyết. Tin Phật không đơn giản, không phải nói hiện nay bạn đă xuất gia, đă thọ giới, hoằng pháp lợi sanh là đă thật sự tin Phật. Có người cả một đời xuất gia, 80-90 năm vẫn không tin Phật. Vậy th́ cái tiêu chuẩn tin Phật đó là ǵ ? Lời Phật nói trong Kinh, bạn thảy đều làm được hết mới gọi là tin Phật. Bạn là người chưa làm được tức là bạn không tin. Đă tin th́ đâu có lư nào mà không làm, không chịu làm chính là không có tin tưởng. Trong "Kinh Hoa Nghiêm" trong "Đại Trí Độ Luận" Phật đă nói rơ :"Tín vi đạo nguyên công đức mẫu". Tín tâm thành tựu th́ không có việc nào chẳng thành. Chúng ta tu hành chứng quả, tín tâm là cội nguồn, là gốc của đạo. Bạn không có tín tâm kiên cố th́ làm sao bạn có thể thành tựu được ?".
"Niệm A-Di-Đà Phật là vào từ "Cửa Tịnh", tu tâm thanh tịnh. Từ câu niệm Phật này, chúng ta nương công đức bổn nguyện của Phật A-Di-Đà, cầu sanh về cơi Tây-Phương Tịnh-Độ. Sang đến thế giới Cực-Lạc, thành tựu của chúng ta, thọ dụng của chúng ta so với những người tu theo các pháp môn khác cao hơn không biết gấp bao nhiêu lần. Cho nên pháp môn niệm Phật này thù thắng không ǵ bằng. Phật ở trong Kinh Vô Lượng Thọ nói pháp môn niệm Phật này thù thắng ở chổ là được Phật lực gia tŕ, Bồ-Tát gia tŕ. V́ vậy bất cứ ai, dù là bậc thượng căn, trung căn hay hạ căn đều cũng có thể tu thành tựu được cả !". [
Pháp Sư Ḥa Thượng Tịnh Không ]

 

Trong chuyến hoằng pháp tại Nhật Bản (Từ ngày 5 đến 17 tháng 5 năm 2015), Ḥa Thượng Tịnh Không giảng Phẩm Thứ Sáu "Phát Đại Thệ Nguyện" [ Kinh Vô Lượng Thọ Phật] - Ngài nói :

+ "Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xác nhận rằng :"Pháp Tạng Bồ Tát thành Phật hiệu là A Di Đà, thành Phật đến nay đă được mười kiếp !". Như vậy có thể chứng minh rằng "48 Lời Nguyện" của Ngài nguyện nào nguyện nấy đều là sự thật, Ngài thảy đều làm được viên măn. Phật đă xác nhận như vậy rồi tại sao chúng ta lại không tin chứ ?".

+ "Phật hiệu chân thật chỉ có bốn chữ, là "A Di Đà Phật" ! "Nam Mô" là lời cung kính, kết mối thiện duyên với A Di Đà Phật. "Nam Mô" cũng mang ư nghĩa quy y, "Nam Mô A Di Đà Phật" chính là quy y A Di Đà Phật, cung kính A Di Đà Phật, lễ bái A Di Đà Phật, ư nghĩa chính là như vậy ! ... Đại Sư Liên Tŕ (Tổ thứ tám của Tịnh Độ Tông Trung Hoa) dạy người khác niệm sáu chữ "Nam Mô A Di Đà Phật", c̣n riêng bản thân Ngài chỉ niệm có bốn chữ "A Di Đà Phật". Tại v́ sao ? V́ Ngài đă thật tin, thật muốn văng sanh Tịnh Độ, nên Ngài chấp tŕ danh hiệu "A Di Đà Phật" là được rồi, lời cung kính có thể miễn nên không cần thiết niệm "Nam Mô" ! C̣n những người khác chưa tin tưởng, chưa chắc chịu văng sanh Tịnh Độ, nên Ngài dạy họ cung kính A Di Đà Phật, quy y A Di Đà Phật, lễ bái A Di Đà Phật, mới bảo họ niệm "Nam Mô A Di Đà Phật" ! V́ vậy chân thật muốn cầu sanh Tịnh Độ chỉ cần niệm bốn chữ "A Di Đà Phật" là được, niệm càng đơn giản càng tốt, đại đạo chí giản, phàm phu thành Phật hay không chỉ ở ngay câu Phật hiệu này mà thôi !".

+ "Kinh điển chỉ cho chúng ta, dạy chúng ta biết cái nào là Chánh, cái nào là Tà. Sau khi đọc qua, ta sẽ có năng lực phân biệt Chánh Tà, phân biệt được thị phi, thiện ác. Phải có cái khả năng này, cuộc đời của chúng ta mới có thể sống hạnh phúc được. Nếu không có khả năng này, mê hoặc điên đảo, sẽ phải chịu rất nhiều khổ nạn. Chỗ hay của Phật pháp chính ngay điểm này. Không phải cứ thắp hương, lễ lạy, cầu nguyện ở chùa là có thể được Phật, Bồ-Tát gia tŕ. Không có chuyện như vậy. Gia tŕ của Phật, Bồ-Tát nằm ở Kinh điển, là những lời giáo huấn, đó mới là gia tŕ thật sự. C̣n việc chúng ta cúng Phật, Đó là báo ân ! ... Kinh điển của chúng ta ngày nay có được từ đâu ? Đây đều là do Phật, Bồ-Tát và các bậc Tổ sư Đại đức thuở trước để lại. Bây giờ chúng ta đọc sách của các Ngài, học được rất nhiều điều hay. Chúng ta phải biết ơn, thờ cúng tượng Phật, sớm tối đến lễ lạy Ngài, đó là báo ân ! Phải hiểu cho rơ cái lư này, nếu như cầu các Ngài gia tŕ th́ là sai lầm. Nếu quả thật các Ngài làm như vậy th́ các Ngài là tham quan rồi c̣n ǵ ! Các Ngài nhận hối lộ mất rồi. Bạn hối lộ Ngài, Ngài đến bảo vệ bạn. Làm ǵ có cái chuyện như thế được ? Đó là sỉ nhục Thánh Hiền, sỉ nhục Phật, Bồ-Tát. Điều này tuyệt không được, đó là tội. Cái này mọi người cần phải biết !". 

+ "Trong Kinh Điển Đại Thừa, Đức Phật có nói về pháp vận, đó là : Thời Chánh Pháp, Thời Tượng Pháp, Thời Mạt Pháp và Thời Diệt Pháp. Thế nào gọi là Chánh Pháp ? Tức là có người giảng kinh, có người nghe kinh, có y giáo tu hành, có chứng quả, đây gọi là Chánh Pháp. C̣n nếu có người giảng kinh, có người nghe kinh, có tu hành nhưng không có chứng quả th́ đó gọi là Tượng Pháp (tức là tương tự gần giống với Chánh Pháp). C̣n nếu có người giảng kinh, có người nghe kinh, nhưng không có người tu hành, mà nếu không có tu hành th́ không thể nào chứng quả, đó gọi là Mạt Pháp. [ Trừ phi niệm Phật văng sanh đến Thế Giới Cực Lạc mới là chứng quả ! ] . C̣n nếu không có ai giảng kinh, không có ai nghe kinh, không có ai tu hành, không có ai chứng quả, đó gọi là Diệt Pháp. Pháp bị diệt mất rồi ! V́ vậy giảng kinh thuyết pháp rất là quan trọng !".

+ "Trong Kinh - Đức Phật thường nói :"Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi" là năm thứ độc mang đến thảm họa; đó cũng chính là tâm thái vô cùng bất thiện ! "Tâm Tham" cảm lấy thủy tai, sóng thần, nước biển dâng lên ... "Tâm Sân Hận" th́ chiêu cảm hỏa tai, núi lửa bùng phát, nhiệt độ trái đất tăng cao, nhiều nơi xảy ra t́nh trạng hạn hán nghiêm trọng ... "Ngu Si" chiêu cảm phong tai, gió lốc, băo lốc, ṿi rồng ... "Ngạo Mạn" và "Hoài Nghi" chiêu cảm địa chấn, núi lở đất sụp, núi non sạt lỡ, đất đai tự nhiên sụp xuống ... Nếu chúng ta chăm chỉ nỗ lực học Phật th́ có thể buông bỏ hết năm loại tâm thái bất thiện này; không tham lam, không sân hận, không si mê, không ngạo mạn, không hoài nghi, th́ hoàn cảnh sống của chúng ta sẽ là mưa thuận gió ḥa, không có tai nạn xảy ra, nơi nơi đều được tốt đẹp, b́nh an !".

+ "Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là nhà triết học vĩ đại nhất trên toàn thế giới ! Kinh Điển Đại Thừa là triết học đỉnh cao của toàn thế giới ! Học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người !".

+ "Tôi đến cuộc đời này để làm ǵ ? Chính là v́ cầu văng sanh Tịnh độ. Tôi chính v́ chuyện này mà đến, tôi chỉ làm mỗi chuyện này. Mục đích cuộc đời tôi chính là văng sanh Thế giới Cực Lạc ! Văng sanh Thế giới Cực Lạc chính là v́ để viên măn thành Phật, ắt thành Chánh Giác ! Tôi chính là đi con đường này, người khác đi con đường của họ, Tôi không đi, tôi chỉ đi con đường này mà thôi !". [ Pháp Sư Ḥa Thượng Tịnh Không ]


+ "Học Phật mà nắm được cương lănh, y giáo phụng hành, lợi ích đạt được trước nhất đó là thân tâm được thanh tịnh. Khi thân tâm thanh tịnh th́ cái thấy rơ nhất là mạnh khỏe, sống lâu, hạnh phúc ngay lập tức đạt được. Người đời mong cầu mănh liệt mà chẳng được, c̣n người niệm Phật sẽ có thể cầu được !".

+ "Pháp môn Tịnh độ, về mặt sự th́ Phật A-Di-Đà, Bồ-Tát, Thánh-Chúng có đến có đi, nhưng xét về mặt lư th́ chẳng có đến có đi ! Bởi v́ Chư Phật, Bồ-Tát biến hiện trong tâm của chúng sanh, chúng sanh văng sanh Tây-Phương Cực-Lạc thế giới, mà thế giới Cực-Lạc cũng là do tự tánh của chúng sanh biến hiện, duy tâm Tịnh độ, hoàn toàn chẳng rời ngoài cái tâm ! A-Di-Đà Phật đến tiếp dẫn là do tín nguyện hạnh của chính ḿnh cảm ứng. Tín - Nguyện - Hạnh là năng cảm, c̣n Phật, Bồ-Tát ứng hiện là sở cảm. Tâm thức của hành nhân văng sanh, chứ không phải thân thể văng sanh. Thân thể là Ngă sở (cái thuộc về Ngă), tâm thức mới chính là Ngă !".

+ "Con người chết đi, thần thức rời khỏi thân thể, c̣n chưa đầu thai, trong thời gian ấy gọi là Trung Ấm Thân. Trung Ấm Thân đại đa số tồn tại trong ṿng bốn mươi chín ngày. Trong thời gian ấy, gia đ́nh quyến thuộc tụng Kinh, niệm Phật để hồi hướng th́ người ấy sẽ được lợi ích, nhưng người ấy sẽ sanh vào chỗ nào vẫn là lưu chuyển theo nghiệp, chính ḿnh chẳng thể làm chủ được ! Nếu không tu Tịnh Độ nguyện cầu Phật lực gia tŕ mà chỉ dựa vào Định lực của chính ḿnh th́ lỡ một mai Định lực mất đi sẽ bị nghiệp lực khống chế, nghiệp nào mạnh sẽ lôi đi trước. Suốt đời tu hành nếu tốt đẹp th́ sẽ đổi lấy phú quư trong đời sau, c̣n nếu tu hành không ra ǵ sẽ phải lưu chuyển trong Tam-đồ. Quán sát cặn kẽ sẽ thấy không văng sanh Tây Phương th́ sẽ gặp phiền phức rất lớn ! Kính mong đồng tu hăy ghi nhớ kỹ !". [ Ḥa Thượng Tịnh Không trong bài giảng :"Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Kư" - Ngẫu Ích Đại Sư Chú Giải ]

 

"Kinh Vô Lượng Thọ có 48 phẩm. Phẩm thứ sáu "Phát Đại Thệ Nguyện" là phẩm quan trọng nhất nói về 48 đại nguyện của Đức Phật A Di Đà. Trong 48 nguyện, các Bậc cao đức thuở xưa nói nguyện thứ 18 là trọng yếu nhất : Mười niệm được văng sanh ! Điều này đă nói rơ công đức danh hiệu Phật chẳng thể nghĩ bàn, cao nhất đỉnh điểm nhất chính là niệm một câu "Nam Mô A Di Đà Phật" !" [ Ḥa Thượng Tịnh Không giảng trong "Bốn Mươi Tám Lời Nguyện Của Đức Phật A Di Đà"]

"Thành tâm Sám-Hối, nhất tâm niệm Phật A-Di-Đà, xưng niệm Bồ-Tát Quán-Thế-Âm th́ nghiệp tội ǵ cũng sẽ được tiêu trừ, tật bệnh ǵ cũng sẽ được vượt qua, chướng nạn ǵ cũng sẽ được hóa giải !".

"Người biết tu Phật, niệm Phật sẽ tạo được công đức. Nếu biết hồi hướng công đức đó đến những người thân của ḿnh th́ ḿnh và người thân đều được hưởng công đức. Đây là điều các Bậc chân tu đă từng chứng nghiệm !".


"Phật chắc chắn là có, chúng ta phải tin rồi ! Kế đến là Pháp, tức là lời dạy của Phật c̣n ghi lại trong kinh điển, cái này cũng chắc chắn có, nên phải tin, không nghi ngờ ! C̣n Tăng th́ ngày nay phải tin "có chọn lọc", không phải ai nói ǵ cũng tin hết, mà phải xem vị Tăng đó tu có đúng với chánh pháp không ? Khẩu ( lời nói ) và Hành ( việc làm ) của vị đó có tương ưng không ? [ Ḥa Thượng Thích Thanh Từ ]

TÔNG CHỈ CỦA TÔNG TỊNH ĐỘ :

1 - Tin Nhận Di-Đà Cứu Độ : Tin pháp môn Tịnh-Độ là pháp môn cứu độ của Đức Phật A-Di-Đà. Ngài chủ động, b́nh đẳng cứu độ chúng ta và cứu chúng ta vô điều kiện.

2 - Chuyên Xưng Di-Đà Phật Danh : Là chuyên niệm danh hiệu của Đức Phật A-Di-Đà (Tức niệm sáu chữ hồng danh : Nam-Mô A-Di-Đà Phật). Chuyên xưng danh hiệu này th́ được Phật A-Di-Đà cứu độ. Niệm Phật có bốn cách : đại-thanh-niệm (niệm lớn tiếng), tiểu-thanh-niệm (niệm nhỏ tiếng), kim-cang-niệm (niệm nhép môi), mặc-niệm (niệm thầm trong tâm).

3 - Nguyện Sanh Di-Đà Tịnh Độ : Tức là cầu được văng sanh về cơi nước Tịnh-độ của Đức Phật A-Di-Đà.

4 - Quảng Độ Thập Phương Chúng Sanh : Khi được văng sanh về cơi Phật A-Di-Đà được thành Phật rồi, lại tiếp tục độ khắp chúng sanh ở mười phương. Đây mới gọi là phát Bồ-đề tâm, Bồ-tát đạo, Bồ-tát hạnh chân chánh.

BỐN ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA TÔNG TỊNH ĐỘ :

1 - Bổn Nguyện Xưng Danh : Niệm danh hiệu Đức Phật A-Di-Đà (Hồng danh sáu chữ) thuận theo bản nguyện của Phật A-Di-Đà, tức chỉ cần xưng danh hiệu Phật là được cứu độ !

2 - Phàm Phu Nhập Báo : Kẻ phàm phu niệm Phật cũng được văng sanh đến Báo-độ của Phật A-Di-Đà ! (Không phải riêng Phàm Thánh Đồng Cư Độ, Phương Tiện Hữu Dư Độ, Thật Báo Trang Nghiêm Độ, Thường Tịch Quang Độ … dành cho bậc thượng căn lợi trí)

3 - B́nh Sanh Nghiệp Thành : Lúc ta đang sống hiện tại đây mà tịnh nghiệp văng sanh của ta đă thành tựu rồi, không phải đợi tới lúc lâm chung mới thành tựu văng sanh ! (Người suốt đời không gặp Phật pháp, không có niệm Phật, đến lúc lâm chung mới gặp Thiện-tri-thức dạy niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật, niệm được mười niệm, được Phật A-Di-Đà và hàng Thánh Chúng hiện ra tiếp dẫn về cơi Tây-Phương Cực-Lạc. Đây được gọi là “Lâm Chung Nghiệp Thành”)

4 - Hiện Sanh Bất Thoái : Tức là ngay lúc ta đang hiện sanh ở cơi Ta-Bà này mà đem thân phàm phu đắc quả vị bất thoái chuyển, một khi đến thế giới Cực-Lạc th́ mau chóng thành Phật.

Pháp Sư Huệ Tịnh dạy :“Pháp môn Tịnh-độ là pháp môn siêu việt, thù thắng. Nếu ai nắm rơ Tông Chỉ và Bốn Điểm Đặc Sắc của pháp môn Tịnh-độ sẽ được tăng thêm pháp hỷ, khai thông trí huệ và mới thật sự có phần văng sanh !”.

Hành giả niệm Phật nên biết : Tất cả phàm phu thiện ác được văng sanh về cơi Tây-Phương Cực-Lạc đều lấy sức đại nguyện của Phật A-Di-Đà làm tăng thượng duyên ! V́ vậy, ngay trong lúc c̣n sống hiện tại đây, hành giả phải luôn luôn nhớ Phật, luôn luôn niệm Phật và nguyện cầu được văng sanh về cơi Tây-Phương Cực-Lạc của Đức Phật A-Di-Đà. Được như vậy, một mai khi nhắm mắt, hành giả sẽ được thấy Phật và hàng Thánh Chúng hiện thân đến tiếp dẫn thần thức về cơi Tây-Phương Cực-Lạc. Thần thức nầy sẽ gá vào hoa sen trong ao thất bảo. Khi hoa sen nở thấy Phật liền ngộ vô-sanh; chính ngay khi đó sẽ được thành Phật ! (Vô-sanh đồng nghĩa với không c̣n sanh-tử luân-hồi, mà không c̣n sanh-tử luân-hồi tức đạt đến Niết-Bàn giải thoát !)

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT !

Phật Ngôn

Các Đức-Phật Thế-Tôn v́ một đại sự nhân duyên mà hiện ra nơi đời. Các Đức-Phật Thế-Tôn v́ muốn khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri-Kiến-Phật mà hiện ra nơi đời !

Người thật hiền đức hay giúp kẻ khác trong cơn túng ngặt, giúp v́ thương, chớ không có ư thủ lợi và cũng chẳng cần người ngoài biết việc ḿnh làm. JATAKAMALA

Không phải tại sanh trong phái hèn hạ mà thành người hèn hạ, không phải sanh trong phái quư tộc mà thành ra người sang trọng. Chính hành động của ḿnh làm cho ḿnh thành ra hèn hạ hay là sang trọng mà thôi. VASULA SUTTA

                                                       Pháp Luân Thường Chuyển Huệ Tâm Khai

                                                       Cát Đoạn Sanh Tử Tọa Bảo Đài

                                                       Kim Cang Đảnh Lễ Y Vương Vị

                                                       Thân Tâm Thanh Tịnh Bái Như-Lai !

Diễn Kệ : Người thường nghe chánh pháp của Phật th́ trí huệ mới được khai mở. Khi trí huệ khai mở th́ cắt đứt sanh-tử luân-hồi, ngồi ṭa sen báu của Phật. Lấy thân kim-cang để đảnh lễ Phật và pháp-thân thanh tịnh lễ lạy Như-Lai !

                                                       Chơn Như Tự Tánh Là Chơn Phật

                                                       Tà Kiến Tam Độc Thật Ma Vương

                                                       Lúc Tà Mê Ma Tại Thân Nương

                                                       Khi Chánh Kiến Phật Thường Tại Thế !

Diễn Kệ : Chơn-tâm tự-tánh của ḿnh đó chính là Phật, C̣n Tham-Sân-Si Tà-kiến đó chính là ma, Khi ta mê ma sẽ làm chủ, Khi ta tỉnh giác th́ Phật hiện tiền !

"Nhất Cú Di Đà Vạn Pháp Vương, Ngũ Thời Bát Giáo Tận Hàm Tạng, Hành Nhân Đản Năng Chuyên Tŕ Niệm, Định Nhập Như Lai Bất Động Đường". Dịch Nghĩa :"Một câu Di Đà là vua của vạn pháp. Năm thời, Tám giáo đều bao hàm trong bốn chữ "A Di Đà Phật". Bất luận người nào nếu chuyên tâm niệm Phật th́ nhất định đạt đến Tịch Quang Tịnh Độ, đến Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà !" [ Ngũ Thời : Thời Hoa Nghiêm, Thời A Hàm, Thời Phương Đẳng, Thời Bát Nhă, Thời Niết Bàn - Bát Giáo : Tạng Giáo, Thông Giáo, Biệt Giáo, Viên giáo, Đốn Giáo, Tiệm Giáo, Bí Mật Giáo, Bất Định Giáo ]

"Chư Phật Xuất Hiện Lạc, Diễn Thuyết Chánh Pháp Lạc, Tăng Chúng Ḥa Hợp Lạc, Đồng Tu Dơng Tiến Lạc". Dịch nghĩa :"Mừng Thay Chư Phật Ra Đời, Mừng Thay Chánh Pháp Khắp Nơi Hoằng Truyền, Vui Thay Tăng Chúng Tịnh Thiền, Vui Thay Thiện Tín Thắng Duyên Tu Tŕ !" [Kinh Pháp Cú - Dhammapada Sutta - Phẩm Phật Đà - Bài Kệ 194]

Người tu Phật chân chánh lúc nào cũng phải hiểu rơ hơn ai hết bổn nguyện của ḿnh trở lại thế gian này là để làm ǵ ? Muốn khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Tri-Kiến-Phật hay tu để giải thoát luân hồi sanh tử ? Người nào có bổn nguyện như vậy mới thật sự là đệ tử chân chánh của Đức Phật !

Tại vùng Nikko cách Tokyo chừng 140 cây số về Hướng Bắc, trong đền Toshogu c̣n lưu giữ một bức điêu khắc cổ bằng gỗ rất nổi tiếng của nghệ nhân Hidari Jingoro ( Thế kỉ XVII ) :"Tượng Ba Con Khỉ" vừa là sáng tạo nghệ thuật, đồng thời vừa ẩn chứa nhiều ư nghĩa sâu xa của người Nhật ! Tác phẩm được khắp thế giới biết đến là bộ điêu khắc “Khỉ Ba Không” của nhóm Kōshin (庚申-Canh thân), một nhóm đạo b́nh dân mà giáo lư là một pha trộn giữa Lăo Giáo và Phật Giáo. Tác phẩm này gồm có ba con khỉ : một con bịt tai, một con bịt miệng và một con bịt mắt.
Ba con khỉ biểu thị rằng : bịt mắt để dùng tâm mà nh́n, bịt tai để dùng tâm mà nghe, bịt miệng để dùng tâm mà nói. Khi tâm ở trạng thái “tĩnh”, không bị quấy rầy, phân tán bởi những hiện tượng bên ngoài, những lời thị phi, những tạp niệm; th́ tâm mới “ngộ” ra chân lư, nh́n thấu bản chất của thế giới, hướng đến điều thiện. Lúc này, hăy dùng cái tâm thiện, tâm đẹp; dùng sự sáng suốt, minh triết mà nghĩ / nói / làm. Chúng cũng là biểu tượng của đạo tu thân theo triết lư Nho Giáo là muốn trở thành người nhân đức th́ "những việc không hợp lễ chớ xem, không hợp lễ chớ nghe, không hợp lễ chớ nói". Lư do khỉ được dùng làm biểu tượng v́ trong tiếng Nhật, từ “zaru” (Không) có âm thanh giống như “saru” (Khỉ). Như vậy, toàn bộ tác phẩm gồm 3 thể : H́nh (khỉ), Dụng (tay che), và Ư (buông bỏ) đều ám chỉ tánh "Không" trong Phật Giáo. Trong xă hội hiện nay bức tượng "Ba Con Khỉ" càng có ư nghĩa hơn bao giờ hết ! Bởi v́ : "Bớt nghe, bớt nói, bớt nh́n là ba công án của nhà Thiền, để giữ tâm ư ta được thanh tịnh !".

HỌC LÀM NGƯỜI

Đại sư Tinh Vân có một người đệ tử, sau khi tốt nghiệp đại học, liền học Thạc sĩ, rồi lại học Tiến sĩ. Sau nhiều năm, cuối cùng cũng đă hoàn thành luận án tiến sĩ nên vô cùng mừng vui.

Một hôm người đồ đệ này trở về, thưa với ngài Tinh Vân :Bạch Sư Phụ, nay con đă có học vị Tiến sĩ rồi, sau này con phải học những ǵ nữa ?”. Ngài Tinh Vân bảo :Học làm người”, học làm người là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được.

Ngài Tinh Vân cho rằng, bất luận là sĩ nông công thương, người ở tầng lớp nào có học tập là có tiến bộ, nay cùng chia sẻ với mọi người về những điều cần phải học.

1. Thứ nhất học nhận lỗi. Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về ḿnh, tất cả mọi lỗi lầm đều đổ cho người khác, cho rằng bản thân ḿnh mới đúng, thật ra không biết nhận lỗi chính là một lỗi lầm lớn. Đối tượng mà ḿnh nhận lỗi có thể là cha mẹ, bạn bè, mọi người trong xă hội, thậm chí nhận lỗi với con cái hay là người không tốt đối với ḿnh, nhận lỗi như vậy bản thân chẳng mất mát ǵ, ngược lại c̣n thể hiện được sự độ lượng của bản thân. Học nhận lỗi là một điều rất tốt, là sự tu tập lớn.

2. Thứ hai học nhu ḥa. Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta lại mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi th́ vẫn c̣n nguyên, cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu ḥa th́ đời con người ta mới có thể tồn tại dài lâu được, chứ cứng làm chi cho chịu thiệt tḥi. Tâm nhu ḥa là một tiến bộ lớn trong việc tu tập. Người ta thường h́nh dung những người cố chấp, th́ tấm ḷng của họ, tính cách của họ rất lạnh, rất cứng y như một miếng sắt vậy. Nếu chúng ta có thể điều ḥa hơi thở, điều ḥa thân tâm, dần dần điều phục tâm như ngựa hoang, như vượn chuyền cành này khiến cho nó nhu ḥa mềm mại, th́ cuộc sống mới vui tươi hơn, mới lâu dài được.

3. Thứ ba học nhẫn nhục. Thế gian này nếu nhẫn được một chút th́ sóng yên biển lặng, lùi một bước th́ biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không. Các vị muốn sống, muốn sinh tồn, muốn sinh mạng này th́ cần phải biết nhẫn, có thể hiểu rơ những đúng sai, thiện ác, tốt xấu của thế gian, thậm chí chấp nhận nó.

4. Thứ tư học thấu hiểu. Thiếu thấu hiểu lẫn nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể ḥa b́nh được ?

5. Thứ năm học buông bỏ. Cuộc đời như một chiếc va li, lúc cần dùng th́ xách lên, không cần dùng nữa th́ đặt nó xuống, lúc cần đặt xuống lại không đặt xuống, cũng như kéo một túi hành lư nặng nề không tự tại chút nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi, tôn trọng, bao dung, mới làm cho người ta chấp nhận ḿnh, biết buông bỏ th́ mới có thể tự tại được.

6. Thứ sáu học cảm động. Nh́n thấy ưu điểm của người khác chúng ta nên hoan hỷ, nh́n thấy điều không may của người khác nên cảm động. Cảm động là tâm thương yêu, tâm Bồ-tát, tâm Bồ-đề; trong cuộc đời mấy mươi năm của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực t́m cách làm cho người khác cảm động.

7. Thứ bảy học sinh tồn. Để sinh tồn chúng ta phải duy tŕ bảo vệ thân thể khỏe mạnh, thân thể khỏe mạnh không những có lợi cho bản thân, mà c̣n làm cho gia đ́nh bạn bè yên tâm, cho nên đó cũng là hành vi hiếu để với người thân.

                     GIỜ   VIỆT   NAM   &   THẾ   GIỚI                    

LONDON

PARIS

SAIGON

TOKYO

SAN FRANCISCO

Webmaster : Đạo Hữu Thiện Trí
Facebook : www.facebook.com/trongbrvt
Youtube : www.youtube.com/user/trongvt
Website : www.phatphap.orgfree.com

Với  Ḷng  Thành  Kính  Tam  Bảo , Đệ  Tử  Chúng  Con  Lập  Nên  Trang  Web  Này  Chỉ  Với  Tâm  Nguyện  Đem  Chánh  Pháp  Của  Phật  Phổ  Độ  Pháp  Giới  Chúng  Sanh  Đồng  Thành  Phật  Đạo  !  Cầu  Xin  Ơn  Trên  Tam  Bảo  Chứng  Tri  Cho  Ḷng  Thành  Của  Chúng  Con  !  ...  Nguyện  Đem  Công  Đức  Này , Trang  Nghiêm  Phật  Tịnh  Độ , Nếu  Có  Ai  Thấy  Nghe , Đều  Phát  Tâm  Bồ  Đề , Hết  Một  Báo  Thân  Này , Đồng  Sanh  Cực  Lạc  Quốc  ! . . .  Nam  Mô  Bổn  Sư  Thích  Ca  Mâu  Ni  Phật  ! . . .  Nam  Mô  Tiếp  Dẫn  Đạo  Sư  A  Di  Đà  Phật  !  . . .  Mọi  Thư  Từ  Bài  Vở , Ư  Kiến  Đóng  Góp , Xin  Vui  Ḷng  Liên  Lạc  :  Đạo  Hữu  Thiện  Trí  [  E-MAIL  :  TRONGVT@YAHOO.COM  ]

                                  Trở    Về    Trang    Chính                        

Free Web Hosting