Thiền Sư
Danh từ Thiền Sư đă xuất hiện trong ngôn ngữ loài người kể từ khi con người biết quay lưng với mọi hệ lụy trần thế ngay từ trong tư tưởng ...
Vị
Thiền Sư thứ nhất chính là thái tử Tất-Đạt-Đa, con của Tịnh-Phạn
vương với
49 ngày ngồi dưới cội Bồ Đề sau khi bỏ cung vàng điện ngọc. Vị kế tiếp
được biết đến nhiều nhất là Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma (?-528) với
chín năm ngồi đối
diện vách (cửu niên diện bích). Lương Vơ Đế là vị vua của Trung Quốc, một
hôm gặp Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma, Vua hỏi :"Trước mặt trẩm là ai ?".Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma trả lời :"Không biết" thay v́ trả lời :"Là thầy, là
Thiền sư, là Ḥa
thượng v.v..."
Cuộc đối thoại giữa Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma và Vua Lương Vơ
Đế là một trong những chuyện thiền đặc sắc nhất được ghi trong 3 cuốn của
nhà văn người Nhật D.T.Suzuki. Đây là bộ sách ghi lại lịch sử
Thiền tông
và cốt tủy thiền xuyên qua các giai thoại giữa các thiền tổ. Sách được
dịch ra nhiều thứ tiếng và tái bản nhiều lần. Bản việt ngữ mang tựa
THIỀN
LUẬN do dịch giả Tuệ Sĩ và Trúc Thiên chuyển ngữ.
Những chuyện sau đây
được trích từ
THIỀN LUẬN nầy hầu góp phần cho việc ôn cố tri tân. Dựa vào
xưa để thấy nay xem có ǵ mới lạ, thiền nay có bị lạc hướng với thiền xưa
không, hay là xưa và nay đều có vị trí độc lập, không thể so sánh
được.
Thiền là ǵ mà khi xưa Thần Quang phải chặt cánh tay sau khi chờ
đợi quá lâu ngoài trời tuyết giá để được Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma lưu tâm và chọn
cho pháp danh Hụê Khả (486-593)mà trong thiền sử có chuyện như
sau :
Đêm kia, Thần Quang đứng dầm ḿnh trong tuyết chờ Tổ Đạt-Ma để ư
đến khi tuyết rơi đầm đ́a chôn vùi ông đến đầu gối. Bấy giờ, Sư mới quay
đầu lại hỏi :"Ông muốn cầu ǵ?"
Thần Quang bi khốc bạch :
"Ngưỡng mong ḥa thượng từ bi mở cửa cam lộ, rộng độ chúng sanh"
Sư nói :
"Diệu-đạo Vô-thượng của chư Phật phải nhiều kiếp tinh cần, khó làm làm được, khó nhịn nhịn được, hàng đức nhỏ trí cùn, ḷng đầy khinh mạn, há có thể chịu nổi nhọc nhằn lao khổ cầu pháp chân thừa sao ?" Thần Quang nghe quở bèn rút dao bén đoạn ĺa cánh tay trái đưa lên trước mặt Sư. Sư biết gặp được pháp khí, bèn nói : "Chư Phật lúc phát tâm cầu đạo v́ pháp bỏ thân, nay ông chặt tay trước mặt tôi, vậy muốn cầu ǵ ?". Nói xong, Sư bèn đổi tên Thần Quang ra Huệ Khả. Khả bạch :"Pháp ấn của chư Phật, con có thể nghe được chăng ?" Sư nói :"Pháp ấn của chư Phật không thể nhờ vào người khác !" Khả bạch :"Nhưng tâm con không an, thỉnh Sư làm cho tâm con an" Sư nói :"Đem tâm ra đây ta an cho !" Khả bạch :"Con t́m măi mà chẳng thấy tâm đâu cả !" Sư nói :"Ta đă an tâm cho ngươi rồi !". Thiền là ǵ mà khi xưa kẻ gánh củi đi bán như Lục Tổ Hụê Năng (638-713) đă làm rạng danh thiền sử qua chuyện sau : Ngày kia, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (601-674) ra thông cáo : vị nào có thể tỏ ra đạt lư đạo, Tổ sẽ truyền y, bát cho mà làm tổ thứ sáu. Thần Tú (tịch năm 706) là người học cao hiểu rộng nhất trong chúng, và nhuần nhă nhất về việc đạo, và cố nhiên được đồ chúng coi như xứng đáng nhất hưởng vinh dự ấy, bèn làm một bài kệ tŕnh chỗ hiểu biết, và biên nơi vách bên chái nhà chùa. Kệ rằng :
"Thân thị Bồ-Đề thọ,
Dịch Nghĩa :
"Thân là cây Bồ-đề.
Ai đọc qua cũng khoái trá, và thầm nghĩ thế nào tác giả cũng lănh
được phần thưởng xứng đáng. Nhưng sáng hôm sau, vừa thức giấc, đồ chúng
rất đỗi ngạc nhiên thấy một bài kệ khác viết bên cạnh, như
sau:
"Bồ-đề
vốn vô
thọ,
Dịch Nghĩa :
"Bồ-đề vốn không cây.
Tác giả của bài kệ sau là một cư sĩ quen lo tạp dịch dưới bếp,
suốt ngày chỉ biết bửa củi, giă gạo cho chùa. Diện mạo ông ta quá tầm
thường đến không mấy ai để ư nên bấy giờ toàn thể đồ chúng rất đỗi sửng
sốt chứng kiến cuộc thách đố ấy nhắm vào một uy quyền đă được thừa nhận.
Nhưng Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thấy ở ông
tăng không tham vọng ấy một pháp khí có
thể thống lănh tăng chúng sau này, và nhất định truyền y, bát cho ông.
Nhưng Tổ có ư lo, v́ hầu hết môn đồ của Tổ đều chưa đủ huệ nhăn để nhận ra
ánh trực giác thâm diệu trong những hàng chữ trên của người bửa củi giă
gạo là Huệ Năng, nên nếu công bố vinh dự đắc pháp ấy lên e nguy hại đến
tánh mạng người thọ pháp. Nên Tổ ngầm bảo Tổ Huệ Năng đúng canh ba, khi đồ
chúng ngủ yên, vào tịnh thất dạy việc. Thế rồi Tổ trao lại y, bát cho Tổ
Huệ Năng làm tín vật chứng tỏ cái bằng cớ đắc pháp vô thượng, và báo trước
hậu vận của đạo thiền sẽ rực rỡ hơn bao giờ hết. Ngũ Tổ c̣n dặn Tổ Huệ
Năng chớ vội nói pháp, hăy tạm mai danh ẩn tích nơi rừng núi chờ đến thời
sẽ công khai xuất hiện và hoằng dương
chánh pháp. Tổ c̣n nói y, bát truyền lại từ tổ
Đạt-Ma làm tín vật sau này đừng truyền xuống nữa, v́ từ đó Thiền sẽ được
thế gian công nhận, không cần phải dùng y, bát tiêu biểu cho tín tâm. Ngay trong đêm ấy, Tổ Huệ Năng từ giă Tổ Hoằng Nhẫn để ra đi
...
Thiền là ǵ mà khi xưa Lâm Tế (?-867) la hét vung gậy trước thính
chúng thay v́ nói năng nhỏ nhẹ, như đă ghi trong thiền sử sau đây :
Định
thượng tọa hỏi Lâm Tế :'Thế nào là đại ư Phật pháp ?". Thiền Sư Lâm Tế
bước xuống thiền sàn, nắm lấy thượng tọa, xáng cho một bạt tai, rồi xô ra.
Định đứng khựng. Ông tăng đứng bên nhắc
:"Định thượng tọa, sao không lạy
ḥa thượng đi ?". Định toan lạy th́ ngay lúc ấy hoát nhiên đại ngộ.
Thiền
là ǵ mà khi xưa Tổ Tăng Xán (?-606) chỉ nói vài câu đă làm cho Tổ Đạo Tín
(580-651) liễu ngộ, như đối thoại sau :
Tổ Đạo Tín một hôm bạch với Tổ
Tăng Xán rằng :"Cúi xin Ḥa Thượng từ bi chỉ cho đệ tử pháp môn giải
thoát !"
Tổ Tăng Xán hỏi :"Ai trói buộc ngươi ?" Tổ Đạo Tín bạch :"Dạ ! Không ai trói buộc hết !" Tổ Tăng Xán nói :"Không ai trói buộc vậy cầu giải thoát làm ǵ ?" Tổ ĐạoTín phát đại ngộ ngay dưới lời nói đó, bỏ công chín năm khổ cầu.
Đặc biệt hơn nữa, thiền là ǵ mà trong
thế giới thiền ngôn lại có câu "phùng Phật sát Phật, phùng Ma sát Ma". Đây
là thiền ngôn có năng lực đánh tan ư đồ của những người khéo lạm dụng danh
từ để tạo sự cuồng tín cho những ai chưa am tường Phật giáo. Đấy cũng là
chỗ đặc thù của Phật giáo mà các tôn giáo khác không có. Phật giáo tồn
tại nhờ b́nh đẳng tánh trí và không chấp trước về danh từ qua câu nói này.
Sự không chấp trước được xem là cây đao
GIÁC NGỘ của Phật giáo đốn ngă tận
gốc sự cuồng tín dựa vào hư tự, và cũng là sự hấp dẫn giới trí thức ngày
nay đến với Phật giáo vậy ! Tóm lại, Cái gọi là Thiền rốt cục cũng chỉ là những việc sinh họat hằng ngày mà thôi. Qua đó thấy ra một cái ǵ đó không hề thay đổi đă có sẵn từ lâu và bị giấu kín bởi vọng tưởng của ta mà thôi ... Người mà thấy ra cái ấy chính là Thiền sư vậy ! |